Web có hơn 1,100 bài viết, hàng trăm chủ đề sức khỏe. Nhiều bài không hiển thị trên tìm kiếm hơi bất tiện. Xem mục DANH SÁCH BÀI VIẾT.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

CHÍNH SỬ CON RỒNG CHÁU TIÊN VIỆT NAM

CHÍNH SỬ CON RỒNG CHÁU TIÊN VIỆT NAM


GIAI ĐOẠN TỔ TIÊN KHAI HÓA HIỆN THÂN RA CHA TRỜI, ĐỊA MẪU LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ SANH RA NHÂN LOẠI CON NGƯỜI Ở GIỮA TIỂU KIẾP THỨ 5(tóm tắt).

Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5 của kiếp Trụ, tức là ở đỉnh kiếp tăng đầu kiếp giảm. Thời ấy là thời kỳ đỉnh cao của chánh khí Tiên Thiên nên các tầng trời, trần gian và các tầng địa phủ đều tương thông, thuận lợi cho con người ra đời. Vì ở vào giai đoạn của đỉnh cao chánh khí Tiên Thiên nên tuổi thọ CÔN TRÙNG, THẢO MỘC, SANH LINH VẠN VẬT cũng rất cao, sống lâu vô kể.
Phần nhiều muôn loài Cầm, Thú, đều có pháp thuật thần thông. Sự đi lại, kiếm ăn của các loài Thần Cầm, Thú, thường gây lên những cơn gió lốc, cây cối ngã đổ ầm ầm, lại thêm những cuộc chiến tranh dữ dội giữa loài RỒNG với loài Quỷ, nhất là đánh nhau với MỘC TINH, HỒ TINH và NGƯ TINH, nên thường tạo ra dông bão ầm ầm, bao cảnh mù trời mịt đất chết chóc ghê hồn.
Lúc bấy giờ nơi cõi hư không trung tâm vũ trụ, ĐỨC KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN thấy muôn loài Thú, Cầm, Bò Sát sát phạt ăn nuốt lẫn nhau. Với cái tánh vô minh, ngu si mê muội, ngự mãi trong linh hồn của chúng càng làm tăng tánh dã thú, ác độc, man dại, mưu mô, xảo quyệt và không ngừng ăn nuốt lẫn nhau càng thêm ghê rợn, không còn có thể tiến hóa được nữa. Linh hồn linh căn của chúng đầu thai lẩn quẩn, lộn qua lộn lại, ở mãi lớp Thú, Cầm, Bò Sát mà thôi. Chúng mãi mãi không bao giờ tìm thấy được Cội Nguồn của chúng, đồng nghĩa là mãi mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Chúng vĩnh viễn ở mãi kiếp Thú, Cầm, Bò Sát, ăn nuốt lẫn nhau và đọa lạc khốn khổ vô cùng, cứ mãi ở lớp Thú Cầm rồi đọa trở lại thành Côn Trùng, Cây Cỏ, … ĐỨC KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN nhìn chúng như vậy mà thương.
Chính vì vậy KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN, mới hiện thân ra con người, tức là ĐỨC CHA TRỜI- ĐỨC ĐỊA MẪU, một Nam một Nữ, cốt cách TIÊN RỒNG, xuất hiện trên dãy núi Long Hoa hình chữ S chính là đất nước Việt Nam, bao gồm cả Lào, Campuchia , Thái lan, Miến Điện, Malayxia và lãnh thổ Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay.
ĐỨC CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN – ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ sinh con đẻ cái nơi đây tức là sinh ra 100 Ông Bà Tổ Tổ Tổ năm màu da anh em đầu tiên của nhân loại. Từ Ông Bà Tổ Tổ Tổ năm màu da anh em mới sanh con đẻ cháu khắp cùng thế giới, lưu truyền nòi giống đến tận bây giờ.
Việc Cha Mẹ Trời sanh con đẻ cái để lưu truyền nòi giống con người với những mục đích như sau:
1* Là để cho Linh Hồn các loài Bò Sát, Cầm, Thú, đầu thai làm người.
2* Nhờ thể xác con người- thể xác cao cấp- thể xác tiểu thiên vũ trụ, nên Tiểu Linh Hồn tiến hóa ý thức, nhận thức nhanh chóng, lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ.
3* Thay thế TỔ TIÊN cai quản điều hành vũ trụ, lúc Tổ Tiên ngủ đi vào đại định cũng như lúc Tổ Tiên thức.
4* Cứu khổ cứu nạn nhân loại còn ở cảnh giới VÔ MINH, đọa lạc luân hồi, khốn khổ. Điều hành nhân loại đi theo Thiên Luật vũ trụ- Thiên Ý Cha Trời. Hiệp theo bộ máy huyền cơ tuần hoàn theo Luật Tự Nhiên tiến hóa xoay chuyển vũ trụ.
5* Thay thế TỔ TIÊN lập lên cảnh giới thiên đàng cực lạc. Ban hành HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, MẬT TẠNG, THIÊN TẠNG, VŨ TRỤ.
6* Duy trì HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, MẬT TẠNG, THIÊN TẠNG, VŨ TRỤ.
7* Bảo vệ CÔNG LÝ CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG VŨ TRỤ, CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG Xã Hội. Bảo vệ QUYỀN THIÊNG LIÊNG con Người, những QUYỀN mà TỔ TIÊN đã chuyển thể sang con cháu nhân loại con Người, những QUYỀN bất khả xâm phạm. NHÂN QUYỀN, THIÊN QUYỀN.
8* Phát minh khoa học TOÀN NĂNG TOÀN GIÁC. Khoa học vũ trụ, khoa học tinh thần, khoa học vật chất, phục vụ cho đời sống, cho VĂN HÓA CỘI NGUỒN CHÍNH NGHĨA.
9* Hướng về CỘI NGUỒN, trở về CỘI NGUỒN, hội nhập CỘI NGUỒN. Tiểu Linh Hồn hội nhập Đại Linh Hồn, bọt nước hội nhập nước, thức tâm thức tánh hội nhập chân tâm chân tánh, vào cảnh giới thật tướng thật tánh vũ trụ, như như ĐẠI ĐỒNG BÌNH ĐẲNG.
10* HIỆN THÂN TOÀN NĂNG TOÀN GIÁC, lập ra vô lượng vô biên phương tiện, tùy bệnh cắt thuốc. Độ tận chúng sinh đồng thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhưng bằng cách nào KHAI HÓA TỔ TIÊN có thể hiện thân ra Đức Cha Trời Mẹ Trời? (Cha Trời chính là Chúa Trời).

TỔ TIÊN bản thể pháp thân linh giác vốn vô vi, không hình tướng. Muốn hiện thành con người hữu vi, Tổ Tiên phải dùng phương pháp: ý niệm thần thông qua thần lực, giống như lực nam châm hút lấy sắt, thép, kẽm, chì vậy.
KHAI HÓA TỔ TIÊN dùng ý niệm thần thông tóm thâu tinh khí tiên thiên tinh hoa chơn DƯƠNG vũ trụ, hiện thân ra ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI hình thể con người 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp cốt Rồng, hào quang vạn nghìn châu báu rực rỡ vô biên.
KHAI HÓA TỔ TIÊN lại tiếp tục dùng ý niệm tóm thâu tiên thiên tinh hoa khí hóa chơn ÂM, hiện thân ra ĐỨC ĐỊA MẪU MẸ TRỜI, 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp cốt Tiên, hào quang vạn nghìn châu báu đẹp lạ, rực rỡ.
Sự hiện thân của TỔ TIÊN một DƯƠNG, một ÂM; một NAM, một NỮ, làm cho hư không bỗng sáng rực rỡ như báo hiệu sự xuất hiện ra đời của ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU MẸ TRỜI. Và đúng thế, từ nơi hư không vũ trụ hai đấng TIÊN RỒNG CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, cùng bay xuống quả địa cầu Nam Thiện Bộ Châu làm nơi sanh con đẻ cái. CHA TRỜI, MẸ TRỜI từ từ hạ chân xuống dãy núi Long Hoa, Địa Long trái đất làm cho quả địa cầu rung động mạnh, chim muôn vạn thú kinh hoàng hoảng sợ không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trên bầu trời mây thường biến mất, xuất hiện mây ngũ sắc lũ lượt kéo đến, hư không vốn rực rỡ bởi hào quang của Cha Trời Mẹ Trời, giờ lại thêm mây ngũ sắc trùng trùng kéo đến chầu Đức Cha Trời, Mẹ Trời, làm cho quang cảnh không gian vốn đã rực rỡ lại càng thêm rực rỡ. Dưới mặt đất, những cây cối khô héo lâu ngày bỗng đâm chồi nảy lộc đơm hoa kết trái. Khắp nơi khắp chốn khắp địa cầu năm châu bốn biển, muôn màu muôn sắc thi nhau đua nở, xuân trời xuân đất, xuân sự sống trỗi lên lời ca bất tử, sông suối những nơi khô cạn bỗng nguồn mạch trở nên sung túc róc rách tuôn ra thấm nhuần mặt đất. Bầu trời mát mẻ trong xanh, nhật, nguyệt, tinh tú, thi nhau tỏa sáng, dưới đất trên không PHỤNG HOÀNG nhảy múa, RỒNG THIÊNG uốn khúc múa đầu, múa bụng, ngúc ngoắc múa đuôi, 8 muôn 4 nghìn loài đua nhau vào vũ hội, tiếng hát ca vang động chín tầng mây. Muôn đạo hào quang rực rỡ phát tỏa ra từ Cha Trời, Mẹ Trời, mang theo mùi hương thơm ngát, muôn loài vạn vật, bò sát, cầm, thú, khắp nơi khắp chốn hít lấy hương trời thì không còn đói khát, linh hồn phấn chấn, thể xác nhẹ bỗng như muốn bay lên cõi hư không. Dãy núi Long Hoa giờ đây chuyển mình khác hẳn kể từ khi Cha Trời, Mẹ Trời đáp xuống nơi đây. Với thân hình to lớn Cha Trời, Mẹ Trời, đáp xuống dãy núi Long Hoa làm cho quả địa cầu rung rinh chấn động mạnh. Chim muôn vạn thú vô cùng hoảng sợ, Cha Trời, Mẹ Trời liền thâu nhỏ thân hình lại chỉ còn độ vài ba mươi trượng mà thôi.
Để sanh ra con cái nhân loại trần gian, Mẹ Trời ĐỊA MẪU ÂU CƠ liền gồm thâu khí ngũ địa, KIM- MỘC – THỦY – HỎA – THỔ, luân chuyển bốn phương ĐÔNG, TÂY, NAM, BẮC, TRUNG ƯƠNG và THỔ KHÍ LINH CỐT nằm sâu dưới dãy núi Long Hoa, tạo thành phôi thai trăm trứng, cùng chung trong một bọc, trong bụng mẹ ĐỊA MẪU ÂU CƠ, hai chữ ĐỒNG BÀO cũng từ đây ra đời. Dãy núi LONG HOA hình Rồng, dãy núi của sự hội tụ tinh hoa trời đất hàng triệu triệu năm, VÔ CỰC, THÁI CỰC, LƯỠNG NGHI, ÂM, DƯƠNG, gồm đủ TỨ TƯỢNG ứng đầy, BÁT QUÁI chuyển xoay, NGŨ HÀNH, ĐỊA CHI không thiếu, MỘT TRĂM CHI KHÍ, trấn khắp ngũ phương ĐÔNG, TÂY, NAM. BẮC, TRUNG ƯƠNG, THƯỢNG, HẠ
ĐỊA MẪU ÂU CƠ tóm thâu tinh hoa trăm chi khí ngũ địa khắp địa cầu, cũng như tinh hoa khí ngũ địa của dãy núi Long Hoa, kết thành phôi thai trăm trứng, trong một bọc lớn, BỌC ÂU CƠ, ứng hiệp năm màu da khác nhau.
KIM trứng da bọc TRẮNG.
MỘC trứng da bọc CHÀM.
THỦY trứng da bọc ĐEN.
HỎA trứng da bọc ĐỎ.
THỔ trứng da bọc VÀNG.
Sự hình thành phôi thai, dưỡng nuôi BÀO THAI phải trải qua một thời gian khá lâu theo luật tự nhiên ở vào giai đoạn đỉnh cao của tuổi thọ, giữa tiểu kiếp thứ 5. Con người sanh ra trung bình thọ 60 nghìn tuổi, thọ 80 nghìn tuổi, yểu 40 nghìn tuổi, đại thọ 100 nghìn tuổi nên ĐỨC MẸ ÂU CƠ phải mang thai đến 9 năm 9 tháng 10 ngày. Biết mình không còn bao lâu nữa là đến ngày khai hoa nở nhuỵ sanh con đẻ cái, nhân loại con người trần gian ra đời, ĐỊA MẪU ÂU CƠ MẸ TRỜI nói với ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI rằng: Này Ông, giờ thì đến lượt Ông. Ông hãy gọi muôn loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, đến để chúng nó đầu thai làm con người, làm con của chúng ta.
ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI nghe ĐỊA MẪU ÂU CƠ nói thế tức thời từ nơi cửa miệng LONG HOA CHA TRỜI, trùng trùng điệp điệp lớp lớp hào quang tua tủa phóng ra, không những vô cùng đẹp mắt mà phát ra vô lượng vô biên âm thanh vi diệu, truyền xa đến tận chân trời góc bể, hang cùng ngõ hẻm khắp quả địa cầu.
Chim muôn, vạn thú, bò sát, những con chúa tể đầu đàn, nghe được âm thanh vi diệu ấy liền cấp tốc lên đường đến nơi Cha Trời đang gọi.
Lúc bấy giờ trên không trung, trung tâm dãy núi Long Hoa, xa gần lớp lớp mây ngũ sắc biến thành vô số vô biên cây báu khổng lồ, đất đai bằng phẳng, Các loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, ở khắp mặt địa cầu, loài ở động ở hang, loài ở rừng ở núi, loài ở cây ở đất, loài ở sông ở biển, loài ở tuyết ở lửa, những con đầu đàn chúa tể thi nhau bay đến dãy núi Long Hoa rợp trời rợp đất. Chúng bay đến chỗ CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, lớp hạ xuống mặt đất báu, lớp trên cây báu, lớp ở trên không, đông vô số, nhiều vô biên không thể tính đếm không thể luận bàn cho hết được. Các chúa tể của các loài BÒ SÁT, CẦM, THÚ, hầu hết đều có pháp thuật thần thông, nhìn thấy hai đấng TIÊN RỒNG với thân hình vô cùng cao lớn, hào quang rực rỡ, xinh đẹp hiền lành, càng nhìn càng ưa càng mến, có con bạo dạn đến gần để nhìn cho rõ.
Nhất là loài RỒNG, loài PHỤNG, loài KHỔNG TƯỚC, loài KỲ LÂN, loài VOI, loài HỔ, SƯ TỬ, loài NGỰA, TRÂU, DÊ, CHÓ , MÈO . . .
ĐỊA MẪU ÂU CƠ thấy chúa tể của muôn loài đến đông đủ tức thời toàn thân của Địa Mẫu Âu Cơ Mẹ Trời lan tỏa vô lượng mùi hương tuôn ra cùng khắp, muôn loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, chỉ cần hít vào một ít không những hết đói khát cả tháng cả năm, thần lực tăng lên gấp trăm gấp nghìn, mà linh hồn cũng minh mẫn sáng suốt lạ thường, nhạy cảm vô biên.
ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI thấy chúng nó đã hít HUỆ HƯƠNG, TRÍ HƯƠNG, GIÁC HƯƠNG, GIỚI HƯƠNG, ĐỊNH HƯƠNG, THIỆN HƯƠNG, DŨNG HƯƠNG, TÍN HƯƠNG, NGHĨA HƯƠNG, HIẾU HƯƠNG, TRUNG HƯƠNG, LỄ HƯƠNG, TẤN HƯƠNG, NHẪN HƯƠNG, NHỊN HƯƠNG, NHỤC HƯƠNG, HỈ HƯƠNG, XẢ HƯƠNG, BI HƯƠNG, ĐỨC HƯƠNG, LẠC HƯƠNG, KHIÊM HƯƠNG, HÒA HƯƠNG, AN HƯƠNG. Từ pháp thân Địa Mẫu phát ra 8 muôn 4 nghìn hương tánh tạng đức, diệu dụng nói sao cho hết, nói sao cho cùng. Tức thời từ trong miệng ĐỨC CHA TRỜI phát ra trăm nghìn muôn ức hào quang, phát ra vô lượng âm thanh khác nhau, cùng một lúc thuyết giáo nói chuyện với muôn nghìn chủng loại CẦM THÚ, BÒ SÁT, khai ngộ ý thức nhận thức của chúng, làm cho ý thức nhận thức của chúng tiến hóa nhanh chóng, rút ngắn thời gian tiến hóa tu luyện, hơn muôn vạn ức kiếp như số vi trần. Chỉ có CHA TRỜI, MẸ TRỜI mới làm nổi việc đó, còn tất cả PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, không ai có thể làm được.
LỜI TRUYỀN DẠY CỦA ĐỨC CHA TRỜI
Hỡi các loài chúa tể các loài CẦM, THÚ, các loài BÒ SÁT, Ta đây là ĐẤNG CHÚA VŨ TRỤ, Đấng Chúa Trời, đấng tạo lập lên tất cả, nay Ta gọi các ngươi đến đây là để nói rõ các ngươi từ đâu có ra, để các ngươi hiểu các ngươi biết đường về, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh ngu si khốn khổ, đần độn đọa đày triền miên không biết đến bao giờ mới hết, có thể nói là mãi mãi.
Khi xưa Ta khai hóa tạo lập tứ đại vũ trụ tạo ra LỰC, KHÍ, NƯỚC, ĐẤT, chuyển vận khai tạo lục đại: lực, khí, đất, nước, gió, lửa.
Khai tạo thành lập tam thiên đại thiên thế giới, ba cõi vật chất, 28 TẦNG TRỜI, bốn cõi TRẦN GIAN, 18 TẦNG ĐỊA PHỦ, ba giới LINH HỒN là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Khi ta khai tạo ra thiên hà, ngân hà, nhật nguyệt tinh tú, thì Ta đã kiệt sức, đi vào giấc ngủ say nên bản thể LINH GIÁC CỦA TA VÀO CẢNH GIỚI VÔ MINH. Có nghĩa là Ta đã quên hết theo giấc ngủ say, chỉ còn bốn đức tánh tự nhiên, Thấy – Nghe – Hay – Biết khắp cùng.
Ta có cái tánh đặc biệt, khi Ta thức thì bản thể pháp thân linh giác của Ta tự nó QUANG MINH, nhưng khi Ta đi vào giấc ngủ vô thức thì tự nó VÔ MINH, nhưng bốn đức tánh Thấy – Nghe – Hay – Biết vẫn còn. Và chính sự vô minh này cộng với cái tánh Thấy – Nghe – Hay – Biết của Ta, phản tỉnh trực giác, khởi sanh Linh Thức Vô Minh xâm nhập vào thế giới vật chất, bám lấy vật chất, khởi niệm tạo ra ý niệm di căn tính chất, ưa ái mến thích tạo ra bản chất di truyền, từ đó sự sống rong rêu ra đời, thu hút tinh hoa tứ đại vật chất vũ trụ, kết tinh sự sống, tiến hóa lên loài cỏ cây, thu hút tinh hoa trời đất, kết hoa kết trái, TINH, KHÍ, THẦN hiệp nhất kết cấu chuyển hóa tạo ra sự sống vi khuẩn vi trùng, tiến hóa lên CÔN TRÙNG, tiến hóa lên BÒ SÁT, CẦM, THÚ. Linh thức vô minh ấy chính là linh hồn các ngươi bây giờ và đến đây, Linh Hồn các ngươi không còn tiến hóa được nữa, vì thân xác của các ngươi chỉ mang xác thân Bò sát, cầm thú, thân xác tầm thường, kết cấu não bộ tầm thường, không thể nào tiến hóa lên cao được nữa mà phải đổi xác chuyển hồn qua xác người hồn người, cuộc sống đứng thẳng, rời bỏ xác thú hồn thú, bốn chân hai cẳng cuộc sống thân ngang. Xác thân con người, thân xác TIỂU THIÊN VŨ TRỤ, vũ trụ thu nhỏ tương thông hết thảy trời đất vạn vật vũ trụ, khối óc con người giúp cho linh hồn con người tiến hóa ý thức nhận thức nhanh chóng tìm ra Cội Nguồn của chính mình.
Các ngươi nên biết, Ta là Đại Linh Hồn, còn các ngươi là Tiểu Linh Hồn, tiểu linh hồn từ đại linh hồn khởi sanh ra. Đại Linh Hồn của Ta trường sanh bất tử không bao giờ mất đi. Vũ Trụ này mất Ta lập lên vũ trụ mới và Ta đã lập lên vô số vô biên vũ trụ như thế nhưng Đại Linh Hồn Ta vẫn còn sờ sờ. Tiểu Linh Hồn các ngươi cũng vậy, trường sanh bất tử không bao giờ mất đi vì tiểu linh hồn các ngươi cũng chính là Đại Linh Hồn của Ta. Ví như Nước tạo ra Bọt nước. Bọt Nước cùng Nước không khác nhau, chỉ có khác là Linh Hồn của Ta là LINH GIÁC. Linh Hồn của các ngươi là LINH THỨC. Tuy linh hồn các ngươi đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp sanh tử, vũ trụ này mất đi vũ trụ khác sanh ra, nhưng linh hồn các ngươi vẫn không hề thay đổi, không cấu nhiễm vật chất trước sau vẫn trong sạch. Chỉ vì vô minh che lấp cái Biết của các ngươi nên không thể nhận ra Linh Thức Vô Vi các ngươi đó thôi. Tiểu Linh Hồn các ngươi khởi sanh ra từ Đại Linh Hồn của Ta, nhưng tiểu linh hồn các ngươi không hề biết được điều đó, bởi vì linh hồn các ngươi sanh ra mang theo VÔ MINH đang say ngủ ấy của Ta, Linh Thức Vô Minh. Nên linh hồn các ngươi không những mê muội mà còn ngu si đần độn, cũng bởi cái tánh mê muội ngu si đần độn này, dẫn dắt các ngươi lạc vào con đường cấu xé ăn nuốt lẫn nhau và mãi mãi sống trong kinh hãi, khốn khổ, dục vọng điên cuồng. Không những các ngươi khốn khổ trong cuộc sống sát phạt, ăn nuốt lẫn nhau, mà còn khốn khổ trong sanh tử luân hồi đọa lạc hết loài này sang loài khác, luân hồi khắp nẻo, khắp nơi khắp chốn vô tận vô biên. Vũ trụ này hủy hoại vũ trụ khác ra đời, các ngươi vẫn tiếp tục đọa lạc mãi mãi trong khốn khổ.
Không những thế, các ngươi lại phải khốn khổ trước sức mạnh vũ trụ cũng như sự luân chuyển tiến hóa vũ trụ. Tiểu Linh Hồn các ngươi ví như là BỌT NƯỚC, Đại Linh Hồn của Ta ví như là NƯỚC, Nước và Bọt nước như CHA với CON, NAM với MÔ, THÁNH với THẦN, A với MEN TUY HAI MÀ MỘT, TUY MỘT MÀ HAI. Đồng bản thể, đồng tánh thể, chỉ khác ở Bọt nước và Nước, Linh Giác và Linh Thức, Chân Tánh và Thức Tánh mà thôi.
Các ngươi nên biết, NƯỚC KHÔNG xa rời BỌT NƯỚC, ĐẠI LINH HỒN không xa rời TIỂU LINH HỒN, các ngươi nghĩ gì?làm gì? Ta đều thấy rõ. Các ngươi khốn khổ Ta cũng chẳng vui chi, linh hồn các ngươi đang sanh sống trong bản thể linh giác vũ trụ- Đại Linh Hồn của Ta, như loài Cá sống trong biển ĐẠI DƯƠNG, Cá nghĩ gì, Cá làm gì? thì ĐẠI DƯƠNG thấy nghe, hay, biết, rõ ràng dù đó là việc làm mảy lông sợi tóc của Cá. Các ngươi cũng thế, các ngươi nghĩ gì làm gì? dù là mảy lông sợi tóc, dù là trải qua vô lượng vô biên số kiếp, ta vẫn THẤY, vẫn NGHE, vẫn HAY, vẫn BIẾT rõ ràng. Thân xác của các ngươi chỉ là thân xác, cầm, thú, bò sát, đã thấp kém mà não bộ cũng thấp kém, không còn tiến hóa lên được nữa. Linh hồn các ngươi cũng chỉ là linh hồn cầm, thú, bò sát, linh hồn ngu si đần độn ăn nuốt lẫn nhau khổ mãi không ngừng.
Các ngươi nên nhân cơ hội này, xả bỏ thân xác cầm, thú, bò sát, linh hồn đầu thai vào loài Người, làm con của Ta, con của TRỜI. Không những các ngươi có một thể xác cao cấp, thể xác tiểu thiên vũ trụ, bộ não tiểu thiên vũ trụ, linh hồn cầm, thú, bò sát đã trở thành linh hồn con Người.
Khi các ngươi đã là con của Ta, không những linh hồn các ngươi tiến hóa ý thức, nhận thức nhanh chóng, trí huệ vô tận vô biên nhờ vào thân xác con Người, các ngươi trở nên khôn ngoan hơn muôn loài Cầm Thú, Bò Sát. Sức mạnh con Người chính là sự khôn ngoan này, các loài bò sát, cầm thú không thể nào theo kịp. Các ngươi sẽ thống soái muôn loài vạn vật, tiến tới làm chủ vận mệnh, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ. Không những các ngươi thoát khỏi loài thú, cầm, bò sát, mà còn thoát khỏi sự ngu si đần độn. Làm con của Ta, dòng giống TIÊN RỒNG, dòng giống uy linh tối thượng. Các ngươi sẽ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Các ngươi sẽ thay ta trông coi vũ trụ, tạo lập lên các cõi THIÊN ĐÀNG CỰC LẠC, giàu sang hạnh phúc sống mãi không chết, thoát khỏi sanh, già, bệnh, tử. Để phân biệt thứ ngôi loài nào đầu thai trước thì loài đó làm đàn anh thường đứng đầu nhân loại con người.
Loài nào đầu thai trước, loài đó sẽ ở ngôi vị CHÍ TÔN làm anh cả con trời, và tiếp theo ngôi vị trước sau phân theo thứ lớp.
Khi ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI thuyết giáo xong liền có 100 linh hồn là những chúa tể đứng đầu CẦM, THÚ, BÒ SÁT, nhanh chóng xả bỏ thân xác LINH HỒN liền đầu thai làm người, làm con của ĐỨC CHA TRỜI, ĐỊA MẪU trong bọc trứng ÂU CƠ, dòng giống TIÊN RỒNG, uy linh tột thế.
CHÚA TỂ của nhiều LOÀI RỒNG xả bỏ thân xác nhanh chóng đầu thai trước nhất, ở ngôi số 1. Kế đến là chúa tể của nhiều loài PHỤNG HOÀNG, đầu thai ở ngôi số 2. Kế đến nữa là Chúa tể nhiều loài KỲ LÂN, KHỔNG TƯỚC đầu thai ở ngôi số 3. Kế đến là Chúa tể của các loài VOI, CHIM ĐIÊU, ĐẠI BÀNG, HỔ, SƯ TỬ đầu thai ở ngôi số 4. Rồi đến Chúa tể của các loài NGỰA TRÂU, CHÓ, MÈO, RẮN, KHỈ, HEO, GÀ đầu thai ở ngôi số 5…
Chỉ riêng Chúa Tể của ba con Quỷ không phải CẦM, không phải THÚ. Thứ nhất đó là loài CHỒN CÁO có cánh chín đuôi. Chúng đa nghi xảo hoạt, giả dối, tự kiêu, tự đại, bản tánh trộm, cướp, lén lút, lối sống nửa tối , nửa sáng, nói một đàng làm một nẻo nên chúng nghi ngờ lời thuyết giáo của Đức Cha Trời, nên HỒ TINH Chúa Quỷ đã bỏ lỡ cơ hội làm con của Đức Cha Trời.
Thứ Hai, Chúa Tể loài THUỒNG LUỒNG có cánh chín đầu không phải Cầm, không phải Thú, không phải Cá, tánh hung dữ, đa nghi, mưu mẹo, ác độc, háo chiến, háo sát. Chúng hủy diệt cả họ hàng tổ tông của chúng, lối sống vừa ở dưới nước, vừa ở trên khô, thích nửa tối nửa sáng, cướp công săn mồi, nói một đàng làm một nẻo, với bản tánh như thế chúng không tin lời truyền dạy của Đức Cha Trời, nên NGƯ TINH Chúa Quỷ đã bỏ lỡ cơ hội làm con của Đức Cha Trời.
Thứ Ba, Chúa tể của CÂY, loài CÂY biết bay, loài CÂY ăn thịt, loài CÂY này chuyên tiết ra mùi hương lạ dụ các loài động vật đến kể cả các loài cầm thú to lớn cũng bị Mộc Chúa Quỷ ăn thịt. Bản tánh Chúa Tể Mộc Tinh gian xảo luôn nắm bắt thời cơ, hiểu rõ con mồi thích gì, tiết ra mùi hương để dụ làm cho con mồi bị mắc lừa và làm mồi cho Quỷ nuốt. Quả là loài cây vô cùng lợi hại vì thường phỉnh gạt dụ dỗ như thế. Mộc Quỷ không tin lời truyền dạy của Đức Cha Trời, nên MỘC TINH Chúa Quỷ bỏ lỡ cơ hội đầu thai làm người làm con của Trời.
Ba con Chúa Quỷ, chúng cũng được CHA TRỜI gọi đến nhưng chúng cao ngạo, chúng không tin những gì Cha Trời truyền dạy, chúng đến để thực hiện mưu đồ bất chính. Hưởng lợi từ hai phía Cha Trời và cầm thú bò sát, không những chúng xem thường con người mà còn tỏ thái độ ganh ghét sự uy nghi, cao sang, uy lực của ĐỨC CHA TRỜI, MẸ TRỜI.
ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU tuy biết thế nhưng cũng để yên cho chúng, không phê phán hay quở phạt gì mà nghĩ: chúng là kẻ có lợi cho sự tu luyện con cái nhà trời, sự tôi luyện cần phải có lửa, muốn thành chính quả phải có sự khảo đảo của ÁC Quỷ , ÁC MA. Muốn tu luyện mau thành chánh quả, phải nhờ cái ác khảo đảo, tôi luyện, phản tỉnh. Có đại ác thì mới thấy đại thiện, ngán ngẩm cái xấu thì mới quý cái tốt, đọa đày khốn khổ thì mới tìm sự giải thoát đến với cái vui, muốn có cõi thiên đàng cực lạc phải thoát ra từ cõi địa ngục. Những kẻ đại ác thường là đại ân nhân của những người đã đạt đến chính quả, vì đạt đến chính quả là đã tha thứ cho những kẻ đại ác.
Vì hiểu thế nên ĐỨC CHA TRỜI không quở phạt chúng mà còn nói: Này ba con Tinh Quỷ, HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG vũ trụ CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, CÔNG MINH. Nếu các ngươi thắng được Lẽ Phải, thắng được Công Lý Chính Nghĩa, thắng được các Con của ta, thì các ngươi có quyền làm chủ vũ trụ.
Ba con Quỷ nghe Đức Cha Trời phán thế, chúng không những không cảm ơn mà còn cao ngạo phóng lên không trung đầy thách thức kiêu căng ngạo mạn. Như muốn nói rằng: hai ngươi nhớ mà giữ lời. Cha Trời thấy thế liền nở nụ cười đầy bí hiểm, khó ai hiểu được thâm ý của Trời, bí mật mãi mãi là bí mật.
Từ khi chúa tể của các loài, cầm, thú, bò sát, đầu thai vào bụng mẹ Địa Mẫu ÂU CƠ, để được làm người, làm con trời, mang dòng máu TIÊN RỒNG, phải trải qua chín năm, chín tháng, mười ngày nữa mới chào đời
Trong thời gian ấy Địa Mẫu Âu Cơ luôn luôn thu hút tinh hoa khí hóa THIÊN ĐỊA nuôi con từng ngày, từng giờ trong bụng, để có được con người bằng xương bằng thịt, lưu truyển nòi giống sau này. Mẹ Âu Cơ với bao công lao khó nhọc nuôi con trong bụng, theo định luật phát triển tiến hóa tự nhiên, mang thai, nuôi thai, dưỡng thai, vô cùng kham khổ, với công lao ấy con cháu TIÊN RỒNG không lấy gì đền đáp nổi.
Địa Mẫu ÂU CƠ mang thai sanh con theo quy luật tự nhiên của phàm trần, thì những người con của Địa Mẫu Âu Cơ mới ở lại sống được nơi chốn nhân gian, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, dòng giống Rồng Tiên.
Một thứ khổ mà tất cả người mẹ sau này đều trải qua đó là khổ mang thai, khổ nuôi con trong bụng, khổ sanh con, khổ nuôi con khi còn nhỏ, thời Đức Mẹ Trời ÂU CƠ Chánh Mẫu cũng phải trải qua.
Thật ra mà nói, với pháp thuật thần thông vô biên của ĐỨC CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU, thì cần gì sanh con đẻ cái lâu như vậy. Chỉ cần nháy mắt là tạo ra hàng loạt con người, nhưng những con người đó chỉ là con người bằng pháp thuật thần thông, không phải con người trần tục sanh, lão, bệnh, tử, ăn uống, đói khát. Theo quy Luật tự nhiên, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, chịu kham chịu khổ tu luyện tiến hóa linh hồn, lối sống có nhân có quả, gieo ác gặt ác, gieo thiện gặt thiện, tiến hóa lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA. Thay Cha Mẹ Trời làm chủ vũ trụ.
Vì vậy để khai tạo ra con người phàm tục sống chung với muôn loài vạn vật, để cho muôn loài vạn vật có cơ hội đầu thai làm người, nên ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ phải theo quy luật tự nhiên, trải qua đầy đủ mọi giai đoạn của khổ mang thai, khổ nuôi thai, khổ sanh con, khổ nuôi con, cái khổ của người mẹ, và ĐỨC MẸ ÂU CƠ là người mẹ Chánh Mẫu đầu tiên chịu sự khổ đó.
ĐỨC MẸ ÂU CƠ mang thai nhân loại đã trải qua chín năm, chín tháng, mười ngày. Biết sắp đến giờ khai hoa nở nhuỵ, sanh con đẻ cái, bằng nói với ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI rằng: Giờ sanh con đã đến, ông hãy ban cho con cái lời nguyền hồng phúc đi.
ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI nhìn về vũ trụ giang san rộng lớn vô tận vô biên của mình, chưa có người trông coi cũng như sự sáng tạo dựng xây cho thêm đẹp, lập lên thế giới thiên đàng cực lạc, cõi nước châu báu trang nghiêm. ĐỨC CHA TRỜI lại nghĩ rằng: Ta là hiện thân của Đức Tổ Tiên, đấng tối cao vũ trụ, ĐẤNG CHÚA CỦA LINH HỒN và VẬT CHẤT, Ta cũng cần có người để kế nghiệp, đó chính là con cái của Ta thay thế Ta làm chủ vũ trụ.
ĐỨC CHA TRỜI lại nghĩ: Pháp thân linh giác Ta vô cùng linh diệu, bản thể linh giác tối cao Cội Nguồn vũ trụ, pháp tạng ĐẠI ĐỒNG, CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO. Ta cần có người duy trì CÔNG ĐẠO VŨ TRỤ, đem lại sự công bằng, bình đẳng cho cuộc sống.
Đức Cha Trời truyền phán rằng:
Này hỡi các con của Ta, khi các con chào đời sẽ vang tiếng sấm lớn: tiếng sấm trí tuệ, tiếng sấm uy quyền, tiếng sấm chúa tể, tiếng sấm làm chủ muôn loài vạn vật, tiếng sấm làm chủ vận mệnh, tiếng sấm làm chủ vũ trụ, ánh sáng trí huệ các con sáng khắp hư không vũ trụ, không chướng ngại, sáng hơn tất cả ánh sáng của muôn vạn mặt trời, sáng hơn hào quang của Ta.
Các con sẽ trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA. Làm chủ HIẾN TẠNG, LUẬT TẠNG, PHÁP TẠNG, MẬT TẠNG, THIÊN TẠNG. Vào năm ngôi báu của Ta, ngôi vị THẾ TÔN, ngôi vị CHÍ TÔN. Vào 10 ngôi tối cao VŨ TRỤ, ngôi vị THẾ TÔN PHẬT TỔ, THẾ TÔN THÁNH TỔ, THẾ TÔN TIÊN TỔ, THẾ TÔN THẦN TỔ, THẾ TÔN CHÚA TỔ, CHÍ TÔN PHẬT TỔ, CHÍ TÔN THÁNH TỔ, CHÍ TÔN TIÊN TỔ, CHÍ TÔN THẦN TỔ, CHÍ TÔN CHÚA TỔ. Thay thế Ta chuyển pháp luân vũ trụ tận độ sanh linh. Ta ban cho các con quyền sáng tạo, các con sáng lập lên các cõi nước trời, thiên đàng cực lạc quốc làm cho vũ trụ, cũng như tam thiên, đại thiên thế giới mỗi ngày mỗi thêm rực rỡ trang nghiêm hơn.
Lời nguyền của ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI vừa dứt, vũ trụ hư không tức thời rung chuyển, ĐỊA MẪU ÂU CƠ chuyển dạ sanh ra MỘT BỌC to lớn khổng lồ, sau đó là một tiếng nổ kinh thiên động địa chấn động toàn vũ trụ, (tiếng sấm Đại Đồng Bình Đẳng ) kế tiếp theo là một trăm tiếng sấm làm chấn động liên miên vũ trụ (tiếng sấm Nhân Quyền con người) (tiếng sấm Thiên Quyền con người) những quyền bất khả xâm phạm. Một trăm tiếng nổ tưởng chừng như vũ trụ đã đến hồi sụp đổ, như báo hiệu cho tất cả muôn loài vạn vật biết là nhân loại con người đã ra đời, thay thế Cha Ông làm chủ vũ trụ, cai quản thế giới vật chất cũng như thế giới linh hồn, kế thừa gìn giữ cơ nghiệp Ông Cha.
Các loài CẦM, THÚ, BÒ SÁT, ở khắp trên mặt quả địa cầu vô cùng hoảng sợ, khiếp đảm khi nghe tiếng sấm vang dậy liên miên, nối tiếp nhau chấn động không gian vũ trụ rung chuyển cả đất trời. Chúng linh cảm là từ đây không những chúng sẽ bị con người cai trị, quản thúc, mà còn sát phạt chúng khi chúng chống lại, chúng thấy muôn đạo hào quang tua tủa rực rỡ, trùng trùng điệp điệp tỏa lên từ khúc giữa đỉnh dãy núi Long Hoa mỗi lúc một dữ dội, âm thanh sấm nổ cứ vang rền mãi không dứt.
Nhất là ba con Chúa Quỷ, linh hồn chúng hoảng loạn run sợ không hiểu chuyện gì đã xảy ra? chúng liền bay lên không trung bay đến đỉnh núi Long Hoa nơi mà chúng gặp Đức Cha Trời, Mẹ Trời hơn 9 năm về trước. Chúng hết sức kinh hoàng vì chúng thấy một trăm người con của Đức Cha Trời đã ra đời, giống Cha Trời, Mẹ Trời như đúc CỐT RÔNG CỐT TIÊN, uy dũng xinh đẹp vô cùng. Những tia hào quang phóng tỏa ra từ 100 người con của Đức Cha Trời, Mẹ Trời làm chúng đau đớn vô cùng như hàng vạn mũi kim đâm vào tim chúng. Chúng thất kinh khiếp vía ẩn mình trốn thoát, không dám quay đầu nhìn lại nữa, chúng chạy mãi chạy mãi cho đến khi kiệt sức mới thôi, ngạo mạn bao nhiêu thì khiếp sợ bấy nhiêu.
Khi ấy hai dòng sữa của ĐỨC MẸ ÂU CƠ tuôn chảy ra bay lên hư không lan tỏa khắp mặt địa cầu hóa thành những hạt giống NGŨ CỐC rớt xuống mặt địa cầu rồi mọc lên ngũ cốc, nhất là nhiều giống lúa, giống ngô, nhiều giống củ xanh tốt lan nhanh khắp cùng mặt đất. Ngũ cốc dòng sữa Mẹ ra đời, khi con người đi đến đâu thì nhờ dòng sữa MẸ để sanh sống.
Một trăm người con Trời đầu tiên ra đời 50 Nam, 50 Nữ gồm 5 màu da hiệp với ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Đức Long Hoa Cha Trời cùng Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ sau khi trải qua một thời gian dài nuôi con thì một hôm Cha Trời nói với Đức Địa Mẫu Âu Cơ rằng: Này bà, không bao lâu nữa dãy núi Long Hoa sẽ bị sụp vì chúng ta đã gồm thâu hết tinh hoa linh khí của dãy núi, nhất là Linh Cốt Địa Long của dãy núi làm cho dãy núi không còn đủ sức chịu đựng, chống trả khi động đất. Sự chuyển bụng của Bà cũng như tiếng sấm ra đời của 100 người con đã gây ra chấn động lục địa, chuyển động trong lòng địa cầu, nên dãy núi Long Hoa sẽ sụp xuống hơn phân nửa, chỉ còn phần chót núi trở lên. Nhưng đó là nói hiện nay, còn nói về sau lâu xa hơn nữa thời đất đai ở phương Đông này động đất dữ dội, nhất là càng về cuối tiểu kiếp. Tứ đại chuyển hóa tăng giảm, giãn nở, co bóp, làm cho địa cầu thay đổi lục địa, dãy núi Long Hoa cùng chung số phận tiếp tục sụp xuống chỉ còn lại những đỉnh núi, tạo thành những dãy núi mà thôi. Sự sụp đổ này, nửa phần của dãy núi chạy dài về Nam nặng hơn là nửa phần chạy dài về Bắc, vì thế chân núi phía Nam phần lớn đất đai ngập chìm trong nước, nên phải chọn chân núi phía Bắc làm nơi sinh sống cho các con.
ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI nói xong liền phất tay một cái, một đám mây ngũ sắc hiện ra nâng 100 người con bay lên không trung theo cha mẹ bay về chân núi phương Bắc (chân núi phía Bắc của dãy núi Long Hoa, tức là địa phận hầu hết Giang Nam lãnh nam Trung Quốc giáp liền với sông Trường Giang- cũng chính là nước Xích Quỷ sau này với chín đời Kinh Dương Vương và kéo dài mấy nghìn năm. Đến đời Kinh Dương Vương đời thứ 9 húy hiệu Lộc Tục là Cha đẻ Quốc Tổ Hùng Vương (xem Kinh Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn). Nước Xích Quỷ là một đất nước không chỉ giàu có nhất mà còn hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Sự giàu có ấy phần lớn là nhờ nền văn minh lúa nước từ thời Viêm Đế Thần Nông truyền xuống. Nước Xích Quỷ sau này trở thành Bắc Văn Lang khi nhà nước Văn Lang ra đời).
Từ trên đám mây Cha Trời, Mẹ Trời dẫn theo 100 người con từ từ hạ xuống một vùng đất bằng phẳng. Sông, suối, ao hồ, liên khúc nước trong văn vắt. Núi, rừng san sát hoa quả sum suê, phù hợp cho cuộc sống con người sanh sôi nẩy nở, bốn mùa tám tiết lúc nào cũng có quả ngọt khắp nơi.
Nhìn những dãy đồi bạt ngàn, rừng xanh mênh mông xa thẳm bát ngát, địa cuộc khắp nơi thế RỒNG CUỘN, HỔ NGỒI, QUI ĐỊNH, PHỤNG AN. Chim muôn vạn thú ở đây đông vô số vô biên, nhất là loài khỉ, loài vượn, loài tinh tinh hàng trăm đàn hàng vạn con.
Một hôm ĐỊA MẪU ÂU CƠ nhìn đàn con khôn lớn, hào quang dần dần biến mất là do ăn hoa quả, uống nước sông nước suối làm tăng thể chất phàm tục. Mẹ ÂU CƠ không lấy đó làm buồn, mà đó là các con đang đi vào lẽ sống của hồng trần. Nhìn các con khôn lớn, giờ chúng có thể nghe có thể hiểu bằng nói với ĐỨC CHA TRỜI rằng: Ông hãy dạy Văn Hoá Ngôn Ngữ đầu tiên của nhân loại con người, để các con chung sống cùng nhau, hiểu biết nhau, tiến hóa ý thức nhận thức, sức mạnh tối cao của con người.

VĂN HÓA NGÔN NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN LOẠI CON NGƯỜI

Đức Long Hoa Cha Trời cũng đã nhận thấy các con cần phải có Văn Hóa Ngôn Ngữ, là thứ Văn Hóa rất cần cho đời sống con người. Nhờ vào Văn Hóa Ngôn Ngữ, con người tiến hóa ý thức nhận thức nhanh chóng, khai mở trí tuệ là sức mạnh tối cao của con người. ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI lấy mặt đất làm giấy, lấy cành cây làm viết, vẽ họa ra nhiều hình tượng, biểu tượng RA NI
Và cũng từ đây, sự sinh hoạt hằng ngày 100 người con của đức Cha Trời thường trao đổi với nhau bằng ngôn từ ngữ ý pháp ý RA NI. Múa tay, động chân, nháy mắt, gục đầu, nhí mũi, nhún vai, lắc đầu, đi, đứng, nằm, ngồi, mà diễn ý trao lời. (Cũng giống như một nhóm người câm họ sống chung với nhau và hiểu được nhau qua biểu thị RA NI.)
Sự sinh sống như thế đã trải qua nhiều năm, tích lũy kinh nghiệm, ý thức, nhận thức, liên tục tiến hóa phát triển. Tình cảm yêu thương, ganh ghét, giận hờn, mưu trí, khôn lanh, đối nhân xử thế, những đức tánh con người liên tục phát triển nhanh chóng không ngừng. Không bao lâu thì sự tinh tế khôn khéo ấy đạt đến cảnh giới xảo thuật, nghệ thuật về ngôn từ qua hành động bằng biểu thị RA NI, đạt đến cảnh giới diễn ý trao lời vi tế khi hai người đàm thoại cùng nhau, thì cũng là lúc chín muồi và tiến hóa chuyển sang giai đoạn thuật ngữ ÂM PHÁP RA ĐỜI thay lần cho biểu thị RA NI, đánh dấu một bước ngoặt chuyển đổi lịch sử phát triển Văn Hóa đời sống của nhân loại con người. Kim- Da Trắng, Mộc- Da Chàm, Thủy- Da Đen, Hỏa- Da Đỏ, Thổ- Da Vàng, (Ngũ Hành, sanh ra Ngũ Luân). Và từ đây bắt đầu cuộc hành trình lưu truyền nòi giống con người- con cháu Tiên Rồng, cũng như mười mục đích đã nói ở trên.
Nhìn đàn con trẻ nô đùa nhảy múa tung tăng, lòng MẸ ÂU CƠ- CHA LẠC LONG QUÂN cũng vui lây theo con cái. Hằng ngày sống chung cùng Cha Mẹ nên một trăm anh em vui đùa thỏa thích không lo lắng gì cả. ĐỨC CHA TRỜI nhận thấy đã đến lúc chuyển sang giai đoạn mới- giai đoạn ÂM PHÁP, để cho ý thức nhận thức con cái tiến hóa lên một tầm cao mới, nhận thức sâu xa hơn nữa, nhận thức về mình, về cuộc sống, về cộng đồng, cuộc sống tôn ti trật tự con người.
Để cho con cái mau chóng tiếp thu ÂM PHÁP, ĐỨC CHA TRỜI bằng dùng thuật ngữ thần thông truyền dạy cho con cái cách phát âm hình thành tiếng nói, cách đánh dấu đặt tên cho người, cho vật, cho côn trùng, thảo mộc, muôn loài bò sát, cầm, thú, sông núi, ao hồ, biển cả, thiện ác . . .
Nhờ vào Văn Hóa Ngôn Ngữ RA NI, TƯỢNG, HÌNH, GẠCH, DẤU tiến tới Văn Hóa THUẬT NGỮ ÂM PHÁP đánh dấu, đặt tên muôn loài vạn vật, biến động, thiên nhiên. Tiến hóa phát triển, sanh, trụ, dị, diệt, phản ảnh hiện thực, tác động vào ý thức, nhận thức của con người, cũng như sự sinh hoạt hằng ngày thường trao đổi với nhau, thể hiện tình cảm, nhu cầu cuộc sống. Cứ thế, con người nhờ vào hai loại Văn Hóa: Văn Hóa Ngôn Ngữ RA NI và Văn Hóa THUẬT NGỮ ÂM PHÁP, trải qua nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, đạt đến cảnh giới diễn ý theo lời nói, mưu trí khôn lanh vượt xa các loài cầm thú, cứ thế phát triển ý thức, nhận thức không ngừng và đạt đến cảnh giới của sự vi tế về ý tứ, nhân cách. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Văn Hóa nghệ thuật, xảo thuật khôn ngoan của ý thức, nhận thức con người.
Cũng vì sự nâng cao kiến thức dẫn đến phân biệt chấp trước, phân biệt màu da nên ĐỨC CHA TRỜI thường thấy các con không được đoàn kết cho lắm, DA VÀNG theo DA VÀNG, DA TRẮNG theo DA TRẮNG, DA ĐEN theo DA ĐEN, DA ĐỎ theo DA ĐỎ, DA CHÀM theo DA CHÀM. Sự phân biệt màu da càng về sau càng lớn cũng như sự xung khắc của KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ, dẫn đến đối nghịch nhau chia rẽ nhau, ĐỨC CHA TRỜI thấy thế liền phán truyền dạy rằng:
Này hỡi các con, các con từ MỘT BỌC mà ra. Tuy các con khác màu da nhưng các con cùng chung một Cội một Nguồn, một Cha một Mẹ, một TỔ TIÊN, một chiếc Nôi quả địa cầu, một Ngôi Nhà chung vũ trụ. Các con là ĐỒNG BÀO, là ANH EM, cùng một dòng giống TIÊN RỒNG. Tất cả các con đều là con của TRỜI, các con phải biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau để mà sống, đùm bọc nhau để mà vượt qua bao nỗi khó khăn. Các con phải có tinh thần đoàn kết, sống vì nhau, tương trợ lẫn nhau, đối xử với nhau thật công bằng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đó mới chính là cuộc sống của con người. Cuộc sống khác với các loài Thú, Cầm, Bò Sát. Cuộc sống tôn trọng Quyền Tự Do, Quyền Công Bằng, Quyền Bình Đẳng, Quyền Tự Do mưu cầu hạnh phúc, không có sự độc tài độc trị đàn áp lẫn nhau.
Các con phải luôn luôn hướng về Cội Nguồn chính là hướng về sự CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, hướng về ĐỘC LẬP, TỰ DO, hướng về TỰ CHỦ, hướng về SỰ SỐNG Chân Thiện, không có Nô Lệ ở đây vì các con là Anh Em, là Đồng Bào.
Vì sao các con phải luôn luôn hướng về CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, hướng về TỰ CHỦ TỰ NGUYỆN, hướng về SỰ SỐNG Chân Thiện? Vì CỘI NGUỒN của các con chính là BẢN THỂ LINH GIÁC TỐI CAO VŨ TRỤ, Bản Thể Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ chính là BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG, Bản Thể CÔNG BẰNG, Bản Thể BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỰ CHỦ, TỰ NGUYỆN, BẢN THỂ TỐI CAO CỦA SỰ SỐNG CHÂN THIỆN
Vì sao các con phải luôn luôn hướng về CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, hướng về TỰ CHỦ TỰ NGUYỆN, hướng về SỰ SỐNG Chân Thiện? Vì CỘI NGUỒN của các con chính là BẢN THỂ LINH GIÁC TỐI CAO VŨ TRỤ, Bản Thể Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ chính là BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG, Bản Thể CÔNG BẰNG, Bản Thể BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỰ CHỦ, TỰ NGUYỆN, BẢN THỂ TỐI CAO CỦA SỰ SỐNG CHÂN THIỆN
Bản thể linh giác TỔ TIÊN, bản thể CÔNG BẰNG, BÌNH ĐẲNG, ĐỘC LẬP, TỰ DO, TỰ CHỦ, TỰ NGUYỆN, khi chuyển hóa sanh ra linh hồn của các con, như NƯỚC chuyển hóa sanh ra BỌT NƯỚC, thì linh hồn bọt nước của các con có những thứ quyền mà TỔ TIÊN có. Đó là QUYỀN SỐNG, QUYỀN CÔNG BẰNG, QUYỀN BÌNH ĐẲNG, QUYỀN ĐỘC LẬP, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN TỰ NGUYỆN, QUYỀN DÂNG HIẾN, QUYỀN SỐNG, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC, QUYỀN NGÔN LUẬN, QUYỀN TỰ CHỦ, QUYỀN SÁNG LẬP, QUYỀN SÁNG TẠO. . . Những Quyền bất khả xâm phạm NHÂN QUYỀN CON NGƯỜI. Cao hơn nữa là Thiên Quyền Con Người, những quyền bất khả xâm phạm. Các con tôn trọng và bảo vệ NHÂN QUYỀN là các con đã đi vào con đường CHÍNH NGHĨA, Vua của các con chính là Cội Nguồn, BẢN THỂ HIẾN TẠNG, PHÁP TẠNG, LUẬT TẠNG, TỐI CAO VŨ TRỤ. Các con nên biết Nguồn Cội của Nhân Quyền chính là Thiên Quyền. Khi các Con làm Chủ Thiên Quyền thì các Con đã trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Các con không còn sống theo Chủ Nghĩa Cá Nhân hay Chủ Nghĩa Tư Nhân mà đã sống theo Chủ Nghĩa Đại Đồng.
Này hỡi tất cả con của Ta, các con từ bọc trứng ÂU CƠ mà ra, không những cùng chung một Cội một Nguồn, mà còn là tình anh em nghĩa Đồng Bào. Các con là con người, các con phải khác với loài cầm thú, đó là tấm lòng Quảng Đại, có chí Nghĩa Nhân, có lòng Hiếu Thuận, biết thương yêu đồng loại, biết tha thứ cho nhau, biết hy sinh vì Đại Nghĩa, trung thành theo lẽ phải, đoàn kết đùm bọc cho nhau, nâng đỡ, giúp đỡ nhau khi lâm nạn. Lối sống con người khác hơn lối sống của loài cầm thú, chính là lối sống Chính Nghĩa, lối sống có đạo có đức, (xem Kinh Nhơn Luân Hiếu Nghĩa sẽ nói rõ hơn).
Này hỡi các con của Ta, các con nghe theo lời dạy của Ta các con chỉ cần làm được một nửa, thì các con sẽ được làm vua làm chúa ở các tầng trời, cõi trời. Sống trong thế giới châu báu, hạnh phúc vô tận vô biên. Các con chỉ cần làm được một lời Ta dạy, thì các Con sẽ được làm vua làm chúa chốn phàm trần. Nếu các con làm theo hai, ba, bốn, lời ta dạy, thì các con sẽ làm vua lớn trên các vua nhỏ, làm chúa lớn trên các chúa nhỏ. Nếu các con chỉ cần nghe theo, tin theo một lời hoặc nhiều lời Ta dạy, chỉ cần được một thời gian nhất là thời gian ở cuối đời, thì các con sẽ được làm các vị thần may mắn, vị thần của sự giàu sang, vị thần uy lực, vị thần khoa học sáng tạo, vị thần hạnh phúc, vị thần trí tuệ, vị thần của vạn sự may mắn, và còn nhiều các vị thần nữa, nói chung vị thần nào vị thần nấy địa vị công danh rực rỡ. Huống chi các con nghe theo, làm theo trọn đời lời Ta dạy, thời phước báo không thể nghĩ bàn, các con mãi mãi là vua là chúa khắp các tầng trời, sống mãi trên thiên đàng cực lạc.
Nếu các con chỉ cần nghe qua lời Ta dạy tuy chưa làm theo, nhưng không quên thì các con cũng sẽ sanh lên các tầng trời làm thiên chúng, làm dân ở các cõi trời tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, muốn gì có nấy, cầu chi đặng nấy, có nhiều phép lạ để vui chơi.
Nếu các con chỉ cần nghe lời Ta dạy nhưng sau đó lại quên, thì các con cũng sẽ trở thành các vị thần, Thiên thần, địa thần, làm chủ NHẬT, NGUYỆT, TINH TÚ, làm chủ núi non, đất đai, sông, hồ, biển cả, gió, lửa, tuyết, mây.
Nếu các con chỉ khen một lời Ta dạy, thời các con sẽ trở thành những người thông thái, học đâu nhớ đó, lắm nhiều tài hay thiên tài, sanh ra nơi đâu thời Quỷ Thần, Người, đều kính trọng.
Nếu các con chỉ cần truyền lại một lời Ta dạy thì đời đời kiếp kiếp ta sẽ luôn luôn ở bên các con, phù hộ cho các con, khai sáng trí huệ cho các con, cho đến khi nào các con ngộ được CHÂN TÂM thấy được CHÂN TÁNH, trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ.
Nếu các con tôn thờ TỔ TIÊN, CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, lại truyền dạy lời Ta dạy cho thế hệ mai sau, thời các con sẽ trở thành PHẬT TỔ, THÁNH TỔ, TIÊN TỔ, THẦN TỔ, THIÊN CHÚA TỔ. Năm ngôi vị CHÍ TÔN VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, thay thế Ta chuyển đại pháp luân vũ trụ, tà chánh, siêu đọa hai nẻo, phước họa hai đường.
Này các con của Ta, nếu các con làm ngược lại lời Ta dạy thì đi vào bất hiếu nghịch thiên, tai họa giáng xuống không sao kể xiết. Các con sẽ biến thành ÁC QUỶ, MA TINH. Các con sẽ trở thành chủ nhân của vô minh, bóng đêm và sự chết chóc. Các con sẽ tạo ra thế giới ĐỊA NGỤC, thế giới của sự chết chóc, tra tấn, hành hình, ăn sắt, uống đồng khốn khổ, sự khổ không ngừng dù chỉ là một giây. Nếu các con đi ngược lại lời Ta dạy, đi theo con đường ác thì các con sẽ biến thành ÁC QUỶ, ÁC MA, YÊU TINH. Chúa tể VÔ MINH làm cho các con kiệt sức, khốn khổ vì chiến tranh, khốn khổ vì luân hồi đọa lạc, đày đọa xuống địa ngục, đày đọa trở lại kiếp súc sanh, cầm, thú. Linh hồn các con trở thành linh hồn cống cao ngạo mạn, tham lam gian trá, ganh ghét, hận thù, lạc vào con đường chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa của sự độc quyền, độc tài, độc trị, gây ra bao cảnh oán than, bao cảnh nồi da nấu thịt anh em tàn sát lẫn nhau (xem Kinh Nhơn Luân sẽ nói rõ hơn).
Chúa tể U Minh sẽ biến linh hồn các con thành những linh hồn ngu si, mê muội, mãi mãi đi sâu vào tội ác, để cho linh hồn các con cũng sẽ mãi mãi nhận lấy quả báo kinh hoàng, khốn khổ tận cùng của sự khổ. Chiến tranh đẫm máu, tàn sát lẫn nhau, là thú vui của ác Quỷ, ác Ma. Là làm cho thế giới tang tóc với những thảm cảnh áp bức, đàn áp dã man, những vương quốc nhà tù chôn vùi cuộc sống. Kết quả cuối cùng thì linh hồn ác ma và ác quỷ cũng chỉ là linh hồn nô lệ, nô lệ cho tham lam, cho hận thù và sự mê muội mà thôi. Những thảm cảnh địa ngục trần gian, binh đao máu lửa, chết chóc chia ly, nô lệ tù đày, là bức tường u minh ngăn cản con người, không cho con người tìm thấy chân trời hạnh phúc. Nhưng các con nghe lời Ta dạy thời bức tường u minh kia, trở thành hành trang ngọc ngà, châu báu trên chặng đường giác ngộ.
Chúa tể của U Minh, chúng rất sợ ánh sáng Chính Nghĩa, nhất là ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác của tâm linh. Chúng không bao giờ muốn cho các con tiến lên cảnh giới PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, vào năm ngôi báu vũ trụ, vì năm ngôi báu ấy luôn luôn tỏa ánh sáng CHÍNH NGHĨA, ánh sáng CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC làm chúng khiếp sợ.
Nếu các con đi ngược lại lời Ta dạy, không những các con đi vào con đường ác đạo, ác lai ác báo, mà các con sẽ bị Vô Minh xoay chuyển mãi mãi đi sâu vào con đường ác đạo. Các con không bao giờ tìm thấy các tầng trời, các con không bao giờ nhìn thấy thiên đàng cực lạc, cũng không bao giờ nhìn thấy con đường Chính Nghĩa, cũng không bao giờ nhìn thấy Chân Tâm Chân Tánh của chính mình. Các con chỉ thấy sự giả dối, sự chết chóc, chiến tranh và hận thù. Các con luôn luôn nếm đủ mùi khốn khổ và đau đớn. Đau đớn khốn khổ về thể xác, đau đớn khốn khổ về linh hồn, đau đớn cảnh nồi da nấu thịt, cha khóc con, con khóc cha, vợ khóc chồng, chồng khóc vợ, anh em cấu xé tàn sát lẫn nhau. Nước mắt của các con kiếp này sang kiếp khác cộng lại nhiều hơn nước cả đại dương.
Các con hôm nay đã được làm người, lại là con của hai đấng Tiên Rồng Cha Trời, Mẹ Trời tối cao vũ trụ. Sự nghiệp giàu sang vô tận, cái giàu không sao kể xiết, vàng bạc châu báu đầy cả hư không tam thiên đại thiên thế giới, đó là các tầng trời. Các con đã là con của Ta, chỉ cần nghe lời Ta dạy, thì các con sẽ thay Ta làm chủ vũ trụ, sống trong bất tử và sự giàu sang. Nếu các con không nghe lời Ta dạy thì đáng tiếc biết bao.
Hỡi các con của Ta, Ta là đấng Cha Trời, đấng thấy rõ biết rõ những gì xảy ra trong tương lai, vì vậy các con phải tuyệt đối tin tưởng ở Ta vì Ta là Cha của các con, và cũng là Đấng chúa tể vũ trụ, đấng thương yêu các con hơn hết. Những gì Cha có, những gì Cha tạo ra, đều là của các con, nhưng các con muốn có được nó, muốn làm chủ giang san vũ trụ, thì các con phải có tài, có trí, có đức, có bi, có lực, có hùng, nắm bắt nguyên lý vũ trụ, áp dụng khoa học vũ trụ, vận dụng sức mạnh vũ trụ, nương theo sức mạnh vũ trụ, làm sức mạnh của mình, thì các con mới làm chủ được con quái vật vũ trụ. Những người con có đức, có trung, có hiếu, có tâm, có nghĩa, có nhân, đối với TỔ TIÊN, CỘI NGUỒN, luôn nghe theo và làm theo lời Ta dạy thì Ta lúc nào cũng ở bên các con, phù hộ các con, giúp sức các con, khai trí mở trí cho các con mau đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác, thay thế ta điều hành vũ trụ làm chủ vũ trụ.
Còn những người con nghịch thiên đi ngược lại lời Ta dạy, dù có làm nhiều, ra sức nhiều, tóm thâu nhiều, vơ vét khắp thiên hạ vũ trụ, cuối cùng chỉ là trắng tay.
Nếu các con nghe lời Ta dạy, các con sẽ luôn luôn gặp Ta ở khắp mọi nơi, lúc nào Ta cũng che chở và dìu dắt các con. Dù cho các con có trải qua vô lượng ức kiếp sanh tử, Ta cũng theo sát các con, hộ trì các con, cứu khổ các con, làm cho trí huệ các con mỗi ngày một thêm tỏa sáng, tiến đến làm chủ chân tâm chân tánh, phát đại nguyện rộng lớn, tận độ vô lượng vô biên lớp lớp con cháu nhân loại- các thế hệ sau vào năm ngôi báu: ngôi PHẬT, ngôi THÁNH, ngôi TIÊN, ngôi THẦN, ngôi CHÚA. Các con hạnh nguyện viên mãn, bọt nước trở về là nước, thức tâm thức tánh trở về chân tâm chân tánh. Tiểu linh hồn trở về với ĐẠI LINH HỒN, hiệp vào pháp thân bình đẳng ĐẠI ĐỒNG VŨ TRỤ, bản nguyên là đấng TẠO HÓA, tổ tiên tối cao vũ trụ, ĐẤNG TẠO LẬP lên tất cả.
ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ thấy 100 người con chăm chú lắng nghe ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI dạy bảo nên lấy làm hài lòng, và nghĩ rằng: Các con đã lớn khôn.
Địa Mẫu Âu Cơ nhìn các con, biết chúng có thể tự lập sanh sống không cần nương tựa vào Cha Mẹ nữa, cũng biết mình không thể ở lâu nơi trái đất. Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN, ĐỊA MẪU ÂU CƠ chia hai nhóm con cái: 50 người con theo cha làm quen với biển đảo, 50 người con theo mẹ làm quen với núi rừng đại ngàn.
Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN dẫn 50 người con trai làm quen từ biển này sang biển khác, từ đảo nọ sang đảo kia, hết đất liền rồi dạo chơi dưới đáy đại dương, cứ như thế từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông rồi trở về chỗ cũ cũng đã hết mười năm trời. ĐỨC MẸ ÂU CƠ cũng thế, MẸ ÂU CƠ dẫn theo 50 người con gái làm quen hết núi rừng đại ngàn này đến núi rừng đại ngàn khác, tham quan các Động, Thác kỳ tích khai tạo của thiên nhiên, hết núi rừng đại ngàn phương Đông rồi đến núi rừng đại ngàn phương Tây, cũng phải mất mười năm rồi trở về chỗ cũ.
ĐỨC CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN, ĐỊA MẪU ÂU CƠ hợp các con lại, rồi tiếp tục dẫn 100 người con cả nam lẫn nữ đi khắp cùng trái đất, khắp Năm châu bốn biển, bằng con đường tham quan hàng không bay trên mây. 100 Người con Đức Cha Trời, Địa Mẫu Âu Cơ, thấy nào là biển rộng mênh mông, nào là đại ngàn cùng khắp, nào là núi cao chót vót, nào là rừng xanh thăm thẳm bạt ngàn, nào là đảo biển lô nhô lớn nhỏ xanh um, biển cả mênh mông, quả địa cầu cảnh đẹp như tranh, đất liền biển, biển liền đất, sông hồ xen lẫn quanh co uốn khúc. Đúng là trên khô, ôi là chim muôn vạn thú. Dưới biển mênh mông ôi là chen chúc cá lội tung tăng, nào san hô, nào hang động, nào thác nước buông màn lụa trắng.
Hết tham quan trái đất ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN cùng ĐỊA MẪU ÂU CƠ lại tiếp tục dẫn các con tham quan khắp các vì sao Thiên Hà, Ngân Hà. CHA TRỜI chỉ mặt trời rồi nói: Các con có thấy không? Tức thời Cha Trời phóng một đạo hào quang trong suốt chiếu vào mặt trời, tức thời một trăm người con nhìn thấy mây kim cương trong suốt xoáy tròn khổng lồ, lớn hơn trái đất gấp hàng trăm hàng nghìn lần, thu hút thần lực vũ trụ phát ra ánh sáng trở thành một khối lửa, sức nóng lan tỏa vô cùng dữ dội. Đức Cha Trời nói với các con: Với sức nóng của mặt trời cũng như sự xoáy tròn với tốc độ khủng khiếp của nó, nó đã chuyển hóa Thần Lực vũ trụ thành Năng Lượng vũ trụ, cũng như với sức nóng của nó đã thiêu đốt tinh lực vũ trụ, thiêu đốt khí lực vũ trụ chuyển hóa thành năng lượng sống vũ trụ. Năng lượng nuôi sự sống của muôn loài vạn vật, Năng Lượng Tinh Lực, năng lượng Tinh Khí hai loại năng lượng này, rất bổ ích cho sức khỏe con người, nhất là hệ thần kinh cũng như thể lực, nội lực. Người tu thiền luyện khí, luyện đạo, phần lớn kết tụ nhị xác thân là nhờ ở hai năng lượng này.
CHA TRỜI, MẸ TRỜI, lại tiếp tục dẫn con cái bay lên hạ thiên thế giới 6 tầng trời, 100 người con lóa cả mắt bởi đất đai nơi đây toàn là châu báu, nhưng không có dấu chân của con người và các loài cầm thú. Cha Trời hiểu rõ những thắc mắc của các con bằng nói: Nơi đây là các tầng trời hạ thiên vũ trụ, không có loài cầm thú nào lên đây được, trừ khi con người dạy bảo cách tu luyện cho chúng, sáu tầng trời này là của các con, các con nhớ lấy.
CHA TRỜI, MẸ TRỜI, lại tiếp tục dẫn con cái bay lên 18 tầng trời Trung Thiên vũ trụ, một lần nữa 100 người con lóa cả mắt, vô cùng kinh ngạc bởi đất đai nơi đây cũng toàn là châu báu, nhưng tỏa sáng rực rỡ khác hẳn châu báu sáu tầng trời hạ thiên vũ trụ. Đức Cha Trời thấy các con có vẻ say sưa thích thú như thế, liền nói: Mười tám tầng trời này đều là của các con. Đức Cha Trời lại dùng thần thông đưa các con bay khắp một tầng trời, lần này 100 người con vô cùng kinh ngạc vì thấy một tầng trời rộng lớn như thế, nếu đem so với quả Địa Cầu, thì quả Địa Cầu nhân gian chỉ là hòn đá, hòn sỏi so với tầng trời mà thôi, Đức Cha Trời nói: Tầng trời càng cao thì càng rộng.
ĐỨC CHA TRỜI, MẸ TRỜI lại tiếp tục dẫn Con Cái bay lên bốn tầng trời Thượng Thiên vũ trụ, nơi đây chỉ là bốn tầng trời chân không. ĐỨC CHA TRỜI liền phóng một đạo hào quang, tức thời bốn tầng trời thượng giới liền hiện ra, 100 người con nương theo hào quang của Đức Cha Trời, thấy tầng trời cao nhất rộng lớn vô tận vô biên là tầng trời Năng Lượng Thần Lực vũ trụ. Tầng trời thấp hơn là tầng trời Năng Lượng Tinh Lực vũ trụ. Tầng trời thấp hơn nữa là tầng trời Tiên Thiên Chân Khí vũ trụ. tầng trời thấp nhất là tầng trời Tiên Thiên Tinh Khí vũ trụ. Đức Cha Trời nói: Ở bốn tầng trời này tuổi thọ rất cao. Chỉ cần ở cõi trời thấp nhất, tuổi thọ cũng đã hơn quả địa cầu nhân gian, huống chi cõi trời Năng Lượng Thần Lực vũ trụ, cõi trời cao nhất thời tuổi thọ ngang bằng vũ trụ. 100 người con nghe cha giảng dạy nhưng không lấy gì hiểu cho lắm, nhưng cũng cố nhớ tin lời cha dạy. Đức Cha Trời nói: Cha sẽ dẫn các con đến một nơi trái ngược lại những gì con đã thấy, đó là 18 tầng ĐỊA PHỦ. Tức thời Cha Trời liền phất tay một cái nháy mắt đã đến 10 tầng địa phủ từ tầng số một đến tầng số mười. 100 người con vô cùng hoang mang sợ hãi, nhất là những người con phái yếu vì thấy các tầng địa phủ. Càng xuống các tầng địa phủ càng sâu thì sự tối tăm càng lớn. Tầng địa phủ thứ nhất còn khá tuy đất đai toàn là đất sắt, đất kẽm, đất chì, đất đồng, đất nhôm, nhưng còn dễ thở, sự sống ở cõi này toàn là linh hồn của các loài bò sát, cầm thú đã biến thành yêu tinh quỷ dữ, chúng tàn sát với nhau thật là ghê gớm. Còn các tầng địa phủ từ tầng thứ hai trở xuống tới tầng thứ mười chỉ là những tầng đất không, càng xuống sâu các tầng địa phủ không những không có ánh sáng mà sự tanh hôi của hơi đất sắt, thép, kẽm chì, cũng như hơi lạnh thấu xương, làm cho con người càng thấy ớn lạnh. 100 người con nói với Cha Trời Mẹ Trời rằng: Chúng con không muốn tham quan các tầng Địa Phủ dưới sâu nữa. Thưa Cha Mẹ, những tầng địa phủ này TỔ TIÊN khai lập để mà chi? Cha Trời nghe các con hỏi liền nói: Những tầng địa phủ này Tổ Tiên lập ra là để cho những người làm ác ở, ác ít thì ở tầng số 1, ác nhiều hơn thì ở tầng số 2, cứ thế ác càng nhiều thì đọa xuống các tầng Địa Phủ sâu hơn, từ tầng thứ 11 trở xuống thì những người đại ác đọa xuống để ở. Nói xong Cha Trời dùng pháp thuật thần thông đưa các con dạo khắp tầng địa phủ thứ 10, 100 người con thấy tầng địa phủ thứ 10 rộng quá rộng hơn quả địa cầu gấp vạn vạn lần thì vô cùng kinh hãi, Đức Cha Trời nói: Các tầng địa phủ càng xuống sâu càng rộng. Cha Trời nhìn 100 người con nói: 18 tầng Địa Phủ Sau này, những con người làm ác sẽ xây lên vô số vô biên xã hội âm phủ, trong xã hội âm phủ có địa ngục âm phủ, các tầng địa phủ khác cũng vậy. Sự sống ở xã hội âm phủ đã khốn khổ rồi, mà còn thêm địa ngục âm phủ nữa thì khốn khổ biết là bao. Địa ngục âm phủ, là sự sống vô cùng thảm khốc, không những đói khát mà còn bị tra tấn khủng khiếp hết sức dã man, do những cai ngục Ác hành lấy Ác tạo ra.
Thấy dẫn các con tham quan mở mang kiến thức đến đây là đủ, Cha Trời, Địa Mẫu Mẹ Trời liền dẫn các con trở lại trần gian, trở về trái đất, trở về chỗ cũ, thời gian tham quan ấy đã trải qua hơn một nghìn năm.
Sao có chuyện lạ như thế?
Vì lúc ở trên bốn cõi trời thượng giới, chỉ cần ở một giờ bằng trần gian cả 100 năm. Với 1000 năm tham quan 28 tầng trời, 18 tầng địa ngục chỉ là sự tham quan chớp nhoáng vừa thấy xong thì đi đến nơi khác.
Một trăm người con theo Cha Mẹ trở về Trái Đất. ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ nhìn các con uy nghi hùng dũng trí tuệ đã lớn khôn, Đức Địa Mẫu Âu Cơ ngẫm nghĩ: Các con của Ta đã hơn một nghìn mấy trăm tuổi, chúng nó tuy chưa trưởng thành nhưng cũng đã lớn có thể tự lập được, Ta không còn ở lại với các con được nữa, Ta sẽ trở về hư không vũ trụ, bằng nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng: Ông hãy dạy bảo các con lần cuối đi. Đức Cha Trời cũng nghĩ: Mình cần phải xa con cái, bằng kêu gọi các con lại dạy bảo lần cuối.
Này các con của Ta, cha và mẹ là hiện thân của Đức Tổ Tiên, ví như Nước hiện thân ra Bọt nước, từ vô tướng vô sắc hiện thân ra hữu tướng hữu sắc, vì thế cha mẹ sắp trở về thật tướng thật tánh của chính mình, tức là thật tướng thật tánh hư không vũ trụ- là Bản Thể linh giác tối cao Tổ Tiên của các con. TỔ TIÊN của các con thân tướng như hư không chỗ nào cũng có, các con không thể nào thấy được dù ở ngay trước mắt các con. Khi nào các con trở thành chánh đẳng chánh giác, thì các con thấy biết một cách rõ ràng. Tổ Tiên các con tạo lập lên quả địa cầu này chỉ là quả địa cầu trần gian giả tạm, chỉ là chiếc nôi nơi sanh ra các con mà thôi, quả địa cầu được tạo lập sau cùng khi tạo lập lên vũ trụ tam thiên đại thiên Thế Giới. Các con đang sinh sống trong chiếc nôi nhỏ bé cõi phàm trần giả tạm, không phải là cõi vĩnh hằng, mà cõi vĩnh hằng của các con chính là các cõi thiên đàng cực lạc, ở khắp các tầng trời mà các con đã nhìn thấy. Không những các con đang sinh sống trong cõi trần giả tạm, mà thân xác của các con cũng chỉ là thân xác phàm trần phàm tục giả tạm mà thôi, chỉ sống được 8 muôn 4 nghìn tuổi, nếu tu luyện thì thọ trên 100 Nghìn tuổi rồi cũng phải bỏ thân xác này thay thân xác khác mà thôi. Thân xác của các con khác với thân xác của Cha Mẹ, vì thân xác của các con là thân xác tinh hoa khí hóa của phàm trần, nên tuổi thọ rất ngắn không giống như thân xác Cha Mẹ là thân xác Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ Tuổi thọ vô biên muốn có là có, muốn không là không, đều theo ý muốn của chính mình.
Các con sanh ra giữa tiểu kiếp thứ năm đang ở vào giai đoạn cuối kiếp tăng, giai đoạn cực thịnh của Tiên Thiên Chân Khí, nên có sự liên thông nối liền các tầng trời với trần gian, chỉ cần các con tu luyện là kết tụ Nhị Xác Thân được ngay, hủy bỏ thân xác phàm tục bay lên các tầng trời để ở. Nhưng các con phải làm tròn hai thiên chức đạo làm người, một là sanh con đẻ cái, trở thành phụ thân, phụ mẫu, phụ diễn lưu truyền nòi giống con người. Hai là truyền dạy cho con cái của các con những lời Ta đã dạy cho các con, Tiểu công là truyền dạy đến ba đời, lập ĐỨC TÔN, các con trở thành ÔNG BÀ. Trung công là bảy đời. Đại Công là chín đời. Nói chung là các con lưu truyền nòi giống, đi đôi với lời dạy của Ta, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn. (xem Kinh Nhơn Luân Hiếu Nghĩa sẽ nói rõ hơn về nhân cách tu luyện đạo đức) (cũng như Kinh Long Hoa Mật tạng sẽ nói rõ về cách tu thiền luyện khí).
Cha Trời dạy: Khi các con tu luyện kết tụ nhị xác thân cũng như truyền dạy những lời Ta dạy. Dạy lại cho con, cháu, chắt, chít, không những các con làm tròn đạo làm Ông làm Bà, đạo làm Cha, làm Mẹ, mà còn tiến hóa ý thức nhận thức, thành tựu trí tuệ giác ngộ, thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, vào năm ngôi báu vũ trụ, tiến tới làm chủ chân tâm chân tánh vào ngôi chánh đẳng chánh giác, năm ngôi CHÍ TÔN vũ trụ, PHẬT TỔ, THÁNH TỔ, TIÊN TỔ CHÚA TỔ, THẦN TỔ, CHÚA TỔ. Cao lên nữa là Phật Tổ Tổ, Thánh Tổ Tổ, Tiên Tổ Tổ, Thần Tổ Tổ, Chúa Tổ Tổ. Và đỉnh cuối cùng là Phật Tổ tổ tổ, Thánh Tổ tổ tổ, Tiên Tổ tổ tổ, Thần Tổ tổ tổ. Những chặng đường tiến về phía trước là như thế các con nhớ lấy. Điều tốt đẹp nhất của con người là cứu nhân độ thế các con hãy ghi nhớ lời Ta dạy.
Cha Trời dạy: Mỗi con người được sanh ra nhất là những con người có địa vị trong cuộc sống, thời đều có ba cái tên thường gọi, vì sao lại có ba tên thường gọi như thế? vì con người là sự sống của tập thể, sự sống của gia đình và sự sống của bản thân khi được sanh ra.
Một là tên tộc, tên bản thân.
Hai là tên gia đình, tên khi đã sanh con.
BA là uy danh tên địa vị xã hội trong cuộc sống.
Cha Mẹ đây cũng không ngoài ngoại lệ ấy:
Tên tộc của Cha là LONG HOA CHA TRỜI.
Tên Cha khi đã có con là LẠC LONG QUÂN.
Tên uy danh của Cha là LONG HOA CỬU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI.
Tên tộc của Mẹ các con là TIÊN CƠ.
Khi sanh ra các con là ÂU CƠ.
Uy danh của Mẹ các con là TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI.
Cha cốt Rồng Mẹ cốt Tiên, tên của các con NAM gọi là QUÂN vừa là vua, vừa là dân, VUA cũng chính là DÂN, tùy các con lựa chọn. Tên của các con NỮ gọi là CƠ, nói đến sự tài đức ứng biến của người phụ nữ, chỉ một chữ Cơ cũng không thể nào luận bàn cho hết được, quân cơ, binh cơ, thiên cơ, huyền cơ, cơ cảm, ứng hóa, linh cơ, thời cơ, không có cơ thời khó mà làm nên việc gì. Có Quân có Cơ thì việc gì cũng làm được. Sức mạnh của Quân Cơ chính là Quân Binh các con hãy nhớ lấy.
Trước khi hai đấng TIÊN RỒNG từ giã con cái, Đức Cha Trời Lạc Long Quân chỉ tay về dãy núi Long Hoa nói: Cuối tiểu kiếp thứ 9 sắp chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, các con hãy khiến dẫn con cháu của các con, tìm về dãy núi Long Hoa tức là Địa Long làm nhà Rồng Tiên trở về vũ trụ.
Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo con cái xong, Cha Trời Mẹ Trời hai người ôm lấy các con lần cuối trong tình yêu thương vô hạn. Hai tòa sen báu như hai quả núi nhỏ từ từ bay đến hào quang rực rỡ không biết đã hiện ra từ lúc nào. Hai đấng TIÊN RỒNG bỗng nhiên cao lớn dị thường như hồi mới đến trái đất, hai người nhìn các con lần cuối rồi từ từ bay lên hai tòa sen. Bầu trời đang trong sáng bỗng nhiên tối sầm, thế gian rơi lệ vì hai đấng Tiên Rồng Cha Trời, Địa Mẫu đã ra đi. Hai tòa sen báu từ từ bay vào chốn hư không xa dần xa dần rồi mất hút trước cảnh chia ly đầy xúc cảm, cũng như sự ngơ ngác của đàn con, hai trăm con mắt cứ nhìn theo và nhìn mãi.
Đất trời hôm qua khác với đất trời hôm nay. Đất trời hôm qua là đất trời mùa xuân, đất trời hôm nay là đất trời mùa đông, bao trùm cái lạnh bơ vơ, cái lạnh của sự nhớ thương không biết bao giờ gặp lại Mẹ Cha, cái lạnh của sự mồ côi mồ cút, trên nẻo đường muôn vạn dặm của cuộc đời.
– Nơi vũ trụ có ba ngôi tối cao đó là TỔ TIÊN KHAI HÓA, ĐỨC LONG HOA CHA TRỜI, ĐỨC ĐỊA MẪU ÂU CƠ. Ba đấng tối cao này không những tối đại linh thiêng, chỉ cần thành tâm nghĩ đến là ứng nghiệm linh ứng ngay, mà còn là ba đấng quyền lực vô biên, quyền năng vô hạn. Không những khai tạo lập lên vũ trụ, tạo lập lên tam thiên đại thiên thế giới, các tầng trời, trần gian, cũng như các tầng địa phủ, mà còn tạo lập lên tất cả sự sống, nhất là khai tạo ra con người, giống động vật cao cấp nhất vũ trụ, nòi giống Tiên Rồng, nòi giống thay thế ông cha làm chủ vũ trụ, tạo lập lên cảnh giới thiên đàng cực lạc.
– Thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN là thời kỳ TỔ TIÊN hiện thân ra con người, hiện thân ra ĐỨC CHA TRỜI, THIÊN HOÀN, hiện thân ra ĐỨC MẸ TRỜI, ĐỊA MẪU HOÀN. Như vậy thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN là thời kỳ TỔ TIÊN HOÀN, THIÊN HOÀN, ĐỊA MẪU HOÀN, thời kỳ hiện thân ra rồi HOÀN TRỞ LẠI, ví như nước hiện ra bọt nước rồi từ bọt nước tan biến trở về là nước. Có thể nói thời kỳ THƯỢNG TAM HOÀN ra đời, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người cho đến khi kết thúc kéo dài hơn một nghìn mấy trăm năm.
– Còn HẬU TAM HOÀN là nói về con cái nhà TRỜI, làm vua làm chúa khắp cùng vũ trụ THIÊN HOÀNG NGỌC ĐẾ, MẪU HOÀNG VƯƠNG MẪU, TIÊN HOÀNG TIÊN CHÚA, nói chung là thời kỳ NHƠN HOÀNG. Sau TAM HOÀN, Thời kỳ hậu TAM HOÀN là thời kỳ NHƠN HOÀNG, 100 NGƯỜI CON CỦA TRỜI, TIỀN TỚI THỜI KỲ PHÂN CHIA NGŨ ĐẾ:
1- LÀ THANH ĐẾ, DA CHÀM.
2- LÀ BẠCH ĐẾ, DA TRẮNG.
3- LÀ XÍCH ĐẾ, DA ĐỎ.
4- LÀ HẮC ĐẾ, DA ĐEN.
5- LÀ HOÀNG ĐẾ, DA VÀNG
Người đời sau nhầm tưởng Tam Hoàng, Ngũ Đế Thời Tổ Tiên Khai Hóa hiện thân ra Cha Trời, Địa Mẫu sanh ra Ông Bà Tổ Tổ Tổ của nhân loại năm màu da anh em với thời kỳ đầu tiền của lịch sử Trung Quốc (2852 – 2205 TCN). ( xem kinh Long Hoa Thiên Tạng sẽ rõ).

THỜI KỲ CUỐI MỖI TIỂU KIẾP ĐẾN ĐẦU TIỂU KIẾP THỨ 9

Cuối các Tiểu Kiếp thời Thủy Tai nổi lên hủy diệt nhân loại con người, những người sống sót trở thành người Nguyên Thuỷ thời sơ khai Hồng Hoang. Thời Sơ Khai Hồng Hoang kéo dài 1 triệu năm thời chuyển sang giai đoạn Hồng Hoang. Giai đoạn Hồng Hoang kéo dài 1 triệu năm rồi chuyển sang giai đoạn Thượng Hồng Hoang, kéo dài 1 triệu năm là chấm dứt thời Hồng Hoang kéo dài tổng cộng 3 triệu năm.
Chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn thời Hồng Nguyên. Sơ Khai Hồng Nguyên, Hồng Nguyên, Thượng Hồng Nguyên kéo dài 3 triệu năm như thời Hồng Hoang. Kết thúc giai đoạn Hồng Nguyên.
Thời chuyển sang thời Sơ Khai Hồng Bàng kéo dài 1 triệu năm, qua thời Sơ Khai Hồng Bàng là thời Hồng Bàng kéo dài 1 triệu năm, thời chuyển qua Thượng Hồng Bàng kéo dài hết kiếp tăng, sang qua đầu kiếp giảm. Đi vào Thượng Ngươn Thượng Kiếp.
(Cuối kiếp tăng – đầu kiếp giảm. Giữa tiểu kiếp là đỉnh cao tuổi thọ muôn loài vạn vật, trong đó có tuổi thọ nhân loại con người lên đến 8 muôn 4 nghìn tuổi, đại thọ con người 100 nghìn tuổi, hoặc cao hơn nữa)
Thượng Hồng Bàng là giai đoạn cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm. Có nghĩa Thượng Hồng Bàng ở hai giai đoạn cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm.
Hết thời Thượng Hồng Bàng kiếp giảm, thời chuyển tới giai đoạn Hậu Hồng Bàng.
Giai đoạn Thượng- Hậu Hồng Bàng ở kiếp giảm kéo dài 5 triệu 4 trăm nghìn năm, tới giai đoạn thời Hồng Chúa, thời Hồng Đế kéo dài gần 3 triệu năm, rồi chuyển sang giai đoạn thời Viêm Đế Thần Nông.
Những giai đoạn chuyển hóa thời kỳ của một tiểu kiếp theo định luật huyền cơ vũ trụ lần lượt trải qua cứ như vậy, theo chu kỳ ở những tiểu kiếp tiếp theo, tiểu kiếp thứ 6, thứ 7, thứ 8, thứ 9, thứ 10. Và cứ thế, chu kỳ tuần hoàn của một tiểu kiếp 16 triệu 8 trăm nghìn năm, và những tiểu kiếp kế theo, tiểu kiếp nào cũng như tiểu kiếp nào không khác nhau là mấy, chu kỳ lặp đi lặp lại.
Cũng như hết ngày rồi lại tới ngày, hết năm rồi lại tới năm. Cũng như Xuân – Hạ – Thu – Đông của mỗi năm. Quy luật tuần hoàn lặp đi lặp lại không khác, năm nào cũng như năm nào, bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông không khác nhau là mấy. Sự lặp đi lặp lại tiểu kiếp trước, tiểu kiếp sau quy luật tuần hoàn khá giống nhau.
Nhân loại Thuỷ Tổ Hồng Hoang đầu kiếp tăng rồi đến hết kiếp tăng, chuyển sang kiếp giảm rồi đến hết kiếp giảm của một tiểu kiếp, cũng như các tiểu kiếp kế tiếp theo. Khi tuổi thọ trung bình hạ xuống chỉ còn 10 tuổi, yểu thọ 1 tuổi, đại thọ 20 tuổi là kết thúc một chu kỳ tiểu kiếp, rồi lại chuyển sang tiểu kiếp mới. Ở đầu tiểu kiếp mới, cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi vào kiếp tăng và tăng mãi lên đến 8 muôn 4 nghìn tuổi, đạt đỉnh của kiếp tăng thời bắt đầu hạ trở xuống, tức là kiếp giảm. Cứ 100 năm hạ giảm xuống 1 tuổi và hạ mãi, cho đến khi tuổi thọ trung bình nhân loại con người chỉ còn 10 tuổi, yểu 1 tuổi, thọ 20 tuổi, thời kết thúc giai đoạn tuần hoàn của một tiểu kiếp .
Ở kiếp tăng có ba giai đoạn chính: thời Hồng Hoang, thời Hồng Nguyên và thời Hồng Bàng. Cho đến thượng Hồng Bàng kéo dài hết kiếp tăng sang qua kiếp giảm, Thời Thượng Thượng Hồng Bàng đi vào Thượng Ngươn Thượng Kiếp.
Thời sơ khai Nguyên Thuỷ Hồng Hoang là thời kỳ đầu kiếp tăng của tiểu kiếp, nhân loại khắp các châu lục rất ít vì bị kiếp nạn Thủy Tai hủy diệt, nhân loại sống sót còn lại không được bao nhiêu, mười phần chỉ còn một phần sống sót chuyển sang đầu tiểu kiếp mới sanh sống.
Có nghĩa là: Nhân loại ở vào giai đoạn cuối tiểu kiếp bị kiếp nạn Thủy tai hủy diệt trong một nghìn năm, mười phần chết hết bảy còn ba. Sau một nghìn năm Thủy Tai giảm dần nhưng vẫn còn mạnh kéo dài thêm hai nghìn năm, Nhân loại sống sót còn lại chỉ một phần. Chín phần nhân loại con người bị Thủy Tai hủy diệt thì những Linh Hồn hành ác trở thành những Linh Hồn Ác Quỷ, Linh Hồn Ác Ma sa đọa xuống các tầng Địa Phủ.
Còn những Linh Hồn còn chút Lương Tâm Lương Tri không sa đọa xuống các tầng Địa Phủ mà ở lại chốn trần gian, thành Ma sống trong cảnh giới Âm Cảnh, hình thành lên nhiều nước Ma. Những Linh Hồn không còn lương tâm, lương tri sa đọa xuống các tầng Địa Phủ nhưng may mắn trốn thoát trở lại trần gian, hình thành lên nhiều nước Quỷ.
Cứ mỗi chu kỳ sau giai đoạn Hỏa Tai, Phong Tai, Thủy Tai, hủy diệt nhân loại con người thời hình thành thế giới nước Ma, nước Quỷ. Nhất là sau giai đoạn Thủy Tai đầu của các tiểu kiếp, khắp các châu lục hình thành lên nhiều nước Ma, nước Quỷ tranh bá cùng nhau trải qua 1 triệu năm. Tới giai đoạn Thượng Đại Sơ Khai Hồng Hoang- Giai đoạn đi lần đến kết thúc thời Sơ Khai Hồng Hoang- Thời kỳ chúa tể Quỷ Vương, Ma Vương ra đời tranh bá với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.
Thời kỳ đỉnh cao cực thịnh của chúa tể Quỷ Vương, Ma Vương, chúa tể Yêu Tinh, Quỷ Dữ, cũng như A Tu La, Dạ Xoa. Thời kỳ A Tu La, Dạ Xoa cùng Yêu Tinh, Quỷ Dữ làm chủ địa cầu và tiến đánh lên Non Tiên Cực Lạc tranh giành với Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở Địa La Bảy Núi, Thiên La Tu Di Sơn, Thượng Đà La trên đỉnh núi Tu Di, nơi Ngọc Hoàng Thượng Đế Ngự Trị.
Ma Vương, Quỷ Vương, Yêu Tinh, Quỷ Dữ, A Tu La, Dạ Xoa cùng vô số Yêu Tinh, Quỷ Dữ khác bị Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở Thượng Đà La, Thiên La, Địa La, đánh bại. Bắt Linh Hồn Yêu Tinh, Ma, Quỷ, A Tu La, Dạ Xoa lộng hành gây rối hỗn loạn trật tự vũ trụ, giam xuống các tầng Địa phủ và cho chúng Quỷ Thần cai quản. Thập Điện Minh Vương cũng từ đó ra đời thống trị Ác Quỷ, Ác Ma, Yêu Tinh, Quỷ Dữ khắp toàn cõi Âm Phủ, cũng như hình thành lên vô số Địa Ngục ở khắp các tầng Địa Phủ.
Nơi các Tầng Địa Phủ, Thập Điện Minh Vương ra đời thống trị Yêu, Tinh, Quỷ Dữ, Ác Ma, Ác Quỷ, ở cuối thời thượng đại sơ khai Hồng Hoang tiểu kiếp thứ 6. Nhân Loại Hồng Hoang chuyển sang giai đoạn mới, Niên Đại Hồng Nguyên ra đời.
Đức CHA TRỜI dạy: Này hỡi các con của ta, ta sanh ra các con và cũng ban cho các con một mỏ ác, một mỏ thiện. Mỏ Ác trên Đầu các con. Mỏ Thiện Chính Là Lương Tâm các con. Nếu các con chỉ biết mình thời các con khai trúng mỏ ác, thời ác ròng sẽ tuôn ra làm hại các con, chôn vùi linh hồn các con vô lượng ức kiếp nơi các tầng Địa Phủ.
Dụng cụ để khai ra mỏ ác đó chính là Chủ Nghĩa Cá Nhân chỉ biết mình, chủ nghĩa của tham tàn bạo ác, độc tài độc trị. Vì thế các con hãy từ bỏ chủ nghĩa cá nhân, luôn nghĩ về nhân loại, từ bỏ tham tàn bạo ác, chấm dứt độc tài độc trị, và ghê tởm chúng như ghê tởm một sự xấu xa nhất. Các con sống theo Lương Tâm, Lương Tri, sống theo Nhân Tính con người thì đó chính là kho tàng Phước Đức. Không những đem lại hạnh phúc cho bản thân, gia đình, họ tộc, mà còn làm cho xã hội, non sông Tổ Quốc hưng thịnh, thời các con mới tránh khỏi kiếp nạn diệt chủng lẫn nhau.
Thời Mạt Vận, Mạt pháp, Mạt Kiếp chính là thời Hạ Ngươn trùng lặp Hạ Ngơn. Bóng u minh trùm xuống chốn trần gian, trong khi nhân loại con người lạc Cội lạc Nguồn. Chính sự lạc Cội lạc Nguồn đó dẫn con người lạc vào Ác Đạo. Mẹ đẻ sanh ra Chủ Nghĩa Cá Nhân dẫn đến tàn bạo, độc tài, độc trị, tàn ác vô cùng.
Phần lớn những kẻ tham tàn bạo ác, độc tài quá nặng, không còn Lương Tâm Lương Tri, mất hết Nhân Tính trở thành kẻ tội nhân thiên cổ, chính linh hồn của họ đã trở thành linh hồn ác Quỷ, ác Ma hung tàn bạo ác vô cùng. Cũng là lúc kiếp nạn tam tai nổi lên hủy diệt con người, mười phần hết bảy còn ba, hết hai còn một. Một phần còn lại chính là những người thiện tâm, trở thành Thuỷ Tổ Nguyên Thuỷ Hoang Sơ. Thủy Tổ Nguyên Thuỷ Ăn Lông Ở Lỗ. Thuỷ Tổ Nguyên Thuỷ Hồng Hoang (xem Kinh Sau thời Hậu Đế sẽ rõ)
Trải qua các thời kỳ, cứ cuối tiểu kiếp hủy diệt và lập lại của Luật Tuần Hoàn Vũ Trụ thì cho đến cuối tiểu kiếp thứ 8 mực nước biển dâng cao, nhấn chìm vô số hầu hết các nước trên toàn thế giới, nhân loại phải di cư lần đến những vùng đất cao, bỏ lại sau lưng bao nhiêu là thành thị thôn quê và đời sống khoa học vật chất hiện đại, vì tất cả giờ đây đã ngập chìm trong biển nước. Nền văn minh vật chất kéo dài hơn mười nghìn năm đã bị hủy diệt hoàn toàn và đi vào kết thúc. Nhân loại còn sống sót ở trên các dãy núi cao khắp mặt địa cầu. Đến đầu tiểu kiếp thứ 9 trở thành người Thượng Cổ ở hang, ở động, ở lỗ, sống chung bầy đàn.
Đầu tiểu kiếp thứ 9 là thời kỳ kiếp tăng, tuổi thọ thủy tổ Hồng Hoang rất ngắn, trung bình chỉ 10 tuổi, thọ 20 tuổi, đại thọ 30 tuổi, yểu 1 tuổi. Cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi và tăng mãi cho đến khi tuổi thọ trung bình là 8 muôn 4 nghìn tuổi, tức là đã trải qua 8 triệu 4 trăm nghìn năm của một tiểu kiếp 16 triệu 8 trăm ngàn năm. Đến đây là hết kiếp tăng vào đầu kiếp giảm, chuyển sang giai đoạn Hồng Bàng. Giai Đoạn này là giai Đoạn Khí Tiên Thiên liên thông xuống trần gian, vì thế người Tiên xuống trần dạo chơi, ăn ở với người trần sanh con đẻ cái. Vào thời kỳ này, không những con người các loại cầm thú, bò sát, thảo mộc tu luyện pháp thuật thần thông rất cao, dễ đắc được nhị xác kim thân, có thể bay đến Hạ Thiên Vũ Trụ để dạo chơi, thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Văn Minh Thiên Tiên, Pháp Thuật Thần Thông
Trong giai đoạn Hồng Bàng kiếp giảm, cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi, giảm mãi xuống khi nhân loại con người tuổi thọ trung bình chỉ còn 30 nghìn tuổi là chuyển sang giai đoạn Hồng Chúa. Khi Nhân loại con người tuổi thọ tiếp tục giảm xuống chỉ còn 10 nghìn tuổi thì chuyển sang giai đoạn Hồng Đế. Giảm xuống tuổi thọ nhân loại trung bình chỉ còn 1 nghìn tuổi thì đi vào giai đoạn cuối thời Hồng Đế( giai đoạn Hồng Chúa, Hồng Đế đều nằm trong niên đại Hồng Bàng).
Giai Đoạn này Khí Tiên Thiên không còn, thay vào đó là khí hóa Hậu Thiên ra đời cắt đứt sự liên thông giữa trần gian và năm non bảy núi, cũng như các cõi trời. Nhân loại trần gian muốn về trời khó khăn không còn như thời đầu mỗi tiểu kiếp. Con người tu luyện để đạt nhị xác kim thân Thiên Tiên khó vô cùng. Con người tu luyện chỉ đạt được cảnh giới Địa Tiên, riêng chỉ có Đức Chí Tôn Lâm Phàm với Thần thông trí huệ mới có thể đạt được cảnh giới của nhị xác kim thân Thiên Tiên. Vào Giai đoạn này gọi là Văn Minh Địa Tiên, Khí Đạo Quyền Pháp.
Giai đoạn cuối thời Hồng Đế kéo dài hàng chục nghìn năm. Đến thời Hồng Đế cuối cùng Hồng Nương hạ sanh quý tử khôi ngô tuấn tú, lớn lên thông minh tài trí khác phàm tên là Hồng Viêm. Lúc Hồng Nương sắp sanh quý tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói: Viêm Đế Thần Nông đầu thai xuống trần mở ra thời đại mới. Các Thiên Thần nói xong rồi biến mất. Hồng Nương sanh ra quý tử, Hồng Chúa liền đặt tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Viêm càng lớn càng thông minh kỳ lạ, sau này trở thành nhà Bác Học nông nghiệp đầu tiên của niên đại Hồng Bàng, có công thâu góp những giống lúa hoang dại (hay còn gọi là cỏ Trời) mọc theo đầm lầy; giống ngô, khoai hoang dại mọc nơi đồi rừng; lai tạo ra nhiều giống lúa thuần chủng, giống ngô khoai thuần chủng, cho năng suất cao. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh của nền lúa nước, nông nghiệp ngô khoai, đem lại sự no cơm ấm áo cho con người.
Khi lên ngôi thay cha, Hồng Viêm đổi từ niên hiệu Hồng Đế chuyển sang niên hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG truyền xuống được 10 đời.
Tới đời thứ 10 Viêm Đế Thần Nông, Đế Nương một hôm ngủ say trong giấc chiêm bao, thấy một con Rồng to lớn bay tới gần bà rồi biến mất, sau đó thì bà mang thai. Đến ngày khai hoa nở nhuỵ thì trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, hiện ra mây Rồng rồi mưa xuống một trận lớn làm cho lúa ngô, khoai sắn, tươi tốt. Vì vậy Viêm Đế Thần Nông đời thứ 10 đặt tên cho cháu là Đế Tôn Long Đế.
Đế Tôn Long Đế càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, dũng mãnh phi thường, có sức mạnh dời non lấp biển, khai phá đất đai rộng mở, đem lại sự phồn thịnh no cơm ấm áo cho người dân. Dân chúng sùng kính vô cùng, lực lãm không ai bằng, nên dân chúng thường gọi Đế Tôn Long Đế là Đức Sùng Lãm. Đế Tôn Long Đế- Đức Sùng Lãm lên ngôi thay ông nội trị vì thiên hạ, đổi niên hiệu từ Viêm Đế Thần Nông chuyển sang niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG.
Giai đoạn niên hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG truyền được 9 đời, đồng danh hiệu là KINH DƯƠNG VƯƠNG.

NGUỒN GỐC CỦA NAM KINH XÍCH QUỶ GIAO CHỈ

Kinh Dương Vương đời thứ Nhất Đế Tôn Long Đế- Đức Sùng Lãm không những có tài mở mang về Nông Nghiệp mà còn có tài Bác Học phát minh ra nền Văn Hóa Giao Tiếp, Hội Họa và các dấu hiệu Ra Ni, thành văn pháp thay cho lời nói. Nhờ phát minh ra nền Văn Hóa Giao Tiếp, gởi thông điệp cho nhau qua tấm da thú, đưa con người xích lại gần nhau, hiểu nhau dù cách xa hàng nghìn dặm, hình thành tính cách ngoại giao với nhiều Bộ Tộc, Bộ Lạc, trao đổi thông tin cho nhau.
Đến đời Kinh Dương Vương thứ 4, Vương Hậu Nương Nương khi sắp sanh liền thấy một con Rồng vàng to lớn đến chào Bà, sau đó không bao lâu Bà chuyển dạ sinh ra Quý Tử. Vì vậy nên KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ tư đặt tên cho con là Long Nhi. Long Nhi lớn nhanh như thổi, thông minh kỳ lạ, học đâu nhớ đó, võ nghệ siêu quần, triệt hạ đàn Sư Tử dễ như chơi, phóng lao vài dặm chẳng ai qua, đi dưới nước như đi trên khô.
Ở vào thời kỳ ấy đã có một số ít Bộ Tộc hình thành, dọc theo Nam sông Trường Giang nhưng bị Thuồng Luồng, Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Hổ Quỷ sát hại. Trong số các Bộ Tộc sống rải rác, Bộ Tộc Kinh Hoa là bị lũ Ác Quỷ sát hại nhiều hơn cả. Vì sống không nổi với bầy lũ Quỷ nên gởi thông điệp về cho Kinh Dương Vương với năm bức họa tiết mang thông điệp như sau:
Bức thứ nhất: Họa tiết đất bằng, đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc trồng lúa, trồng ngô.
Bức thứ hai: Họa tiết nói lên nơi đây có nhiều loài Thủy Quái hung dữ như Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ. Chúng theo bám con người tàn sát dữ dội.
Bức thứ ba: Họa tiết nói lên các loài Thủy Quái phá hại mùa màng, có phép thuật vô cùng lợi hại như đi gió về mây, gây ra cảnh lụt lội tàn phá cuộc sống của dân.
Bức thứ tư: Họa tiết Kinh Dương Vương đem quân đánh Quỷ, đuổi chúng đi nơi khác hoặc tiêu diệt chúng.
Bức thứ năm: Họa cảnh nói lên sau khi dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ, dựng lên đất nước giàu có, ấm no hạnh phúc.
Nói về Long Nhi, lớn lên trở thành Long Vương Tử tài đức song toàn. Kinh Dương Vương xem xong 5 bức thông điệp do Bộ Tộc Kinh Hoa gởi đến, Kinh Dương Vương xem tới đâu gật đầu tới đó nhưng không có ý kiến gì, mà đưa 5 bức họa tiết thông điệp cho Long Vương Tử xem. Long Vương Tử xem xong lấy làm mừng rỡ bằng xin Cha ban cho Ấn lệnh đem quân dẹp loạn Yêu Quỷ, Kinh Dương Vương bằng lòng. Long Vương Tử liền phát động đại quân tiến về Đông Hải đến Long Giao, tiến đánh các loài Thủy Tộc Yêu Tinh ác Quỷ.
Long Vương Tử đi đến đâu, các loài Thủy Tộc kinh hồn khiếp vía đến đó. Long Vương Tử chính là Rồng Chúa đầu thai nên các loài Yêu Quỷ Thủy Tộc thấy Long Vương Tử đến đâu là kinh khiếp đến đó. Bị Long Vương Tử dùng pháp thuật bắt hết, số nào chống cự lại thì bị giết, số nào bị bắt thì xiềng xích chờ ngày trị tội. Diệt xong các loài Thủy Tộc, Trăn Tinh, Xà Tinh, Hổ Tinh phải mất cả năm, số còn sống sót thì trốn chạy ra biển, ở trên các hải đảo hoặc trốn chạy qua xứ khác.
Từ đây Long Vương Tử thu phục một vùng đất đai rộng lớn thuộc phía Nam sông Trường Giang giáp biển.
Long Vương Tử từ thượng nguồn Tây Bắc Côn Minh đánh xuống Quý Dương, Trùng Khánh, Quế Lâm, Chu Châu, Liễu Châu, Thiều Quang, Nam Xương, Hàng Châu, Hạ Môn nói chung là hầu hết Lãnh Nam Trung Quốc ngày nay. Dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng Luồng Quỷ, Cá Sấu Quỷ, Trăn Quỷ, Rắn Quỷ, Hổ Quỷ, sau đó là cho quân binh khai phá đất đai màu mỡ, trồng ngô cấy lúa, đưa thời đại Kinh Dương Vương tiến lên một bước giàu sang mới.
Long Vương Tử lên ngôi thay cha trở thành Kinh Dương Vương đời thứ 5, dời Kinh Đô về Giao Chỉ lập lên nước Xích Quỷ.
KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 5 là vị Vương Thiên Tài, Đức Độ hơn người, chăm lo phát triển Nông Nghiệp, phát triển nền Văn Hóa giao tiếp, thuận tiện cho việc ngoại giao, trao đổi hàng hóa, dụng cụ, lương thực khắp xa gần lân bang các nước bạn.
Khi ấy phía Bắc, Bắc sông Trường Giang, các Vương Đế cũng đã hình thành. Nói chung là Dân Tộc Đông Nam Á hay Dân Tộc Đông Bắc Á cũng chỉ là con cháu của Huỳnh Đế, Hồng Đế mà thôi.
Ở cuối thời Hồng Đế, Nam sanh VIÊM ĐẾ. Thời Bắc sanh PHỤC HI, anh em một nhà.
VIÊM ĐẾ: là nhà Bác Học NÔNG NGHIỆP.
PHỤC HI: là nhà Bác Học CÔNG NGHIỆP tơ tằm, bông vải dệt lụa.
Khi Nam chuyển sang giai đoạn KINH DƯƠNG VƯƠNG thời Bắc chuyển sang Vương Đế, Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, Đế Hạ, Đế Vũ v.v… Sự giao thương qua lại giữa Nam Bắc mỗi ngày một nâng cao nhưng mầm họa chiến tranh cũng từ đó mà phát triển. Do đâu? Do tham lam mà ra cả.
SỰ RA ĐỜI VỊ QUỐC TỔ THIÊN TÀI CÓ MỘT KHÔNG HAI TRONG NHÂN LOẠI CON NGƯỜI
Cho đến đời KINH DƯƠNG VƯƠNG thứ 9, húy hiệu là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương. Sanh ngày mùng 6 tháng 3 năm giáp tý, 3084 trước Công Nguyên.
Nói về Vương Hậu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 8, khi Vương Hậu sắp sinh con, trong lúc mơ màng yên giấc ngủ, liền thấy thần dân trong nước ở khắp mọi miền đem cúng nạp vô số châu báu trâm bảo quí hiếm, vàng bạc, ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, trầm hương, mật gấu đầy nhà chật kho. Quả thật, sau khi Vương Hậu sanh Quý Tử thời dân khắp mọi miền đất nước đem châu báu trâm bảo, sơn hào hải vị hiếm quí dâng lên Vua mừng Thái Tử ra đời, nên Kinh Dương đời thứ 8 đặt tên cho con là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương.
Lộc Tục càng lớn càng hiền lành nhưng lại là nhà Quân Sự tài giỏi nhất đương thời. Vốn bản chất chân tu không háo sắc nên không có nhiều thê thiếp. Khi lên nối ngôi thay cha cũng đồng danh hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9, không tuyển thêm thê thiếp gì cả, tuy tuổi đã lớn gần trăm nhưng chưa có con nối dòng làm cho các quan vô cùng lo lắng.
Trong một chuyến tuần du nơi Động Đình Hồ, Kinh Dương Vương gặp Thần Long Nữ, bộ lạc Long Giao (nay là dân tộc Nhật Bản). Kết duyên phu phụ thành vợ thành chồng.
Một hôm Thần Long Nữ trong lúc mơ màng thấy chốn nhân gian mây đen cuồn cuộn, yêu tinh quỷ dữ đầy trời, nhân loại lầm than khốn đốn, mất đi quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, ngục tù cùng khắp, cực hình thê thảm vô cùng. Đang trong lúc kinh hoàng sợ hãi thì thấy một vị Chí Tôn Thiên Đế, Một Đấng Anh Hùng Cái Thế xuất hiện, tay cầm Thiên Ấn, tay cầm Thiên Bút, Thiên Bút biến mất, Thiên Ấn hóa thành Gươm Thiên Trí Huệ, phát ra ba đạo hào quang. Mỗi lần Gươm Thiên Trí Huệ vung lên, tức thời hàng loạt tiếng sấm nổi lên, vô số mặt trời hiện ra, yêu tinh, quỷ dữ liền tan biến hết, bóng đêm chẳng còn, trời quang mây tạnh, muôn hoa đua nở, mùa xuân phơi phới, thái bình an lạc. Thần Long Nữ đem việc thấy kỳ lạ đó kể cho Kinh Dương Vương nghe, từ đó Thần Long Nữ mang thai. Đúng vào giờ Thìn ngày 20 tháng 2 năm Giáp Thìn tức vào năm 2989 TCN chính là ngày khai hoa nở nhụy của Thần Long Nữ, lúc đó thời hoa Lan khắp nơi đều nở rộ, hương thơm khắp cả nước non, cộng thêm với điềm lành xuất hiện khắp nước Xích Quỷ. Vì Thế Lộc Tục và Thần Long Nữ đặt tên cho con là Hùng Lan.
Hùng Lan lớn lên không những khôi ngô tuấn tú mà Đạo Đức, Trí Huệ có một không hai. Có bốn Đức tính nổi bật mà ai cũng thấy, bốn Đức tính đó là Hùng – Bi – Trí – Đức. Với bốn Đức tính này, tuy còn nhỏ nhưng đã vang danh thiên hạ. Hùng Lan sau này chính là Quốc Tổ Hùng Vương.
Cuối thời đại Kinh Dương Vương, Nước Xích Quỉ có 36 dân tộc. Cho đến khi Hùng Lan khai Hội Long Vân dùng Văn Hóa Cội Nguồn gồm thâu thêm 64 dân tộc nữa thành 100 dân tộc vào 2 tháng 3 năm Ất Sửu tức là vào năm 2967 Trước Công Nguyên.
Sau 3 năm thao luyện binh mã, truyền đạt Văn Hoá Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Hùng Lan còn truyền đạt cả pháp thuật thần thông tối cao để tiêu diệt Yêu Tinh Quỷ dữ cho chúng Hội Long Vân và Quân Dân Âu – Lạc để xây dựng lên một nước Văn Lang Hùng Mạnh sau này. Đúng Ngày 1 tháng 5 năm Mậu Thìn tức là vào năm 2964 Trước Công Nguyên, Hùng Lan xin phép Vua Cha Dẫn Quân Âu – Lạc Tiến về Lãnh Nam Địa Long Vũ Trụ Diệt 3 con Chúa Quỷ, Hồ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh.
Sau Khi Hùng Lan Tiêu diệt xong ba con chúa Quỷ, liền tiến hành xây dựng Quốc Đô Văn Lang và khai hoang vỡ hóa mở rộng đất đai được dân chúng hưởng ứng theo về rất đông từ đó nước Xích Quỷ được mở rộng lên gấp 3 lần. 3 năm sau, khi Kinh Dương Vương sắp về trời liền truyền ngôi lại cho Hùng Lan. Hùng Lan khi lên ngôi trị vì thiên hạ thay Cha liền CHUYỂN ĐỔI NIÊN HIỆU KINH DƯƠNG VƯƠNG SANG GIAI ĐOẠN NIÊN HIỆU HÙNG VƯƠNG. CHUYỂN ĐỔI NƯỚC XÍCH QUỶ THÀNH NƯỚC VĂN LANG. CHUYỂN ĐỔI QUÂN DÂN ÂU – LẠC THÀNH QUÂN DÂN ÂU VIỆT- LẠC VIỆT NHẰM NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM QUÍ DẬU, 2959 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN, NHÀ NƯỚC VĂN LANG CHÍNH THỨC RA ĐỜI. QUỐC ĐẠO XUẤT HIỆN.
Giai đoạn ĐỒNG BÀO Đoàn Kết, Thống Nhất một trăm bộ lạc đều lấy chung một chữ VIỆT gọi là Bách Việt. Dân tộc Siêu Việt Anh Linh, nòi giống Rồng Tiên ra đời, nòi giống con Trời, thừa kế cơ nghiệp Tạo Hóa Cha Ông. Vì Vậy QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG CHÍNH LÀ ÔNG TỔ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ TRUNG NGUYÊN TRUNG QUỐC. BỞI VÌ KHÔNG NHỮNG QUỐC TỔ KHAI SINH RA NHÀ NƯỚC VĂN LANG MÀ CÒN KHAI SINH RA DÂN TỘC BÁCH VIỆT VĂN LANG, CON RỒNG CHÁU TIÊN, CON LẠC CHÁU HỒNG. Từ đây Chữ Việt luôn gắn liền với nước Việt Nam qua các Thời kỳ lịch sử sau này.
Quốc Tổ Vua Hùng là đấng kỳ Tài, kỳ Trí, kỳ Đức. Với Nền Quốc Phòng toàn Dân bảo vệ Đất Nước. Toàn Dân xây dựng Đất Nước. Toàn Dân khởi nghĩa chống ngoại xâm. Toàn Dân cảnh giác quân thù. Với chính sách lấy Dân làm gốc, tạo lên sức mạnh vô địch, phát huy cái gốc của Dân chính là Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc, sức mạnh Tinh Thần Đoàn Kết, sức mạnh dời non lấp biển, sức mạnh Thần Thánh với ba Cơ Quan Lãnh Đạo Đất Nước:
1. Thượng Viện Quốc Đạo Lãnh Đạo tinh thần Dân Tộc.
2. Hạ Viện Quốc Hội Lãnh Đạo phát triển Đất Nước.
3. Quốc Hội thi hành mọi chủ trương của Đạo, của Nhà Nước đi vào đời sống nhân dân.
Đây nói về phía Bắc sông Trường Giang, Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh có con gái của Đế Lai là Đế Cơ (Phụng Cơ) công chúa, sắc nước hương trời, lại thêm pháp thuật thần thông cao cường, chăn tằm dệt vải đều thông giỏi, Tài Đức, Công – Dung – Ngôn – Hạnh có một không hai chốn nhân gian. Đế Cơ Công Chúa phi ngựa qua sông Trường Giang, thả mình vân du lạc đến động Lăng Xương xem hoa dạo cảnh (nay thuộc Huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cũng chính là Nơi Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) Nguyễn Tuấn tu luyện thành đạo). Tạo Hóa se duyên, gặp lúc Vua Hùng cũng đang vân du chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Tạo Hóa an bày hai người gặp nhau, yêu nhau rồi kết thành phu phụ, nên duyên chồng vợ, về chung sống ở Phong Châu Nghĩa Lĩnh, Kinh Đô Văn Lang (nay thuộc tỉnh Phú Thọ, Việt Nam). Từ đó Nam Bắc sông Trường Giang, hai phương giao hòa âu ca thịnh trị.
Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh là con Cháu của nhà Húc Đế, hậu nhân của Phục Hi ở phía Bắc sông Trường Giang, nay chính là các nước Tây Á bây giờ.
NÓI VỀ CƯƠNG VỰC NƯỚC VĂN LANG XƯA:
Đông giáp biển; Tây giáp Ba Thục và sông Hồng Lạc (tức là sông Mê Công ngày nay); Bắc giáp Hồ Động Đình; Nam giáp Hồ Tôn ( tức champa), bao hàm hầu hết miền Giang Nam của Lãnh Nam Trung Quốc bây giờ như: Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Côn Minh, Trùng Khánh, Hàng Châu, Phúc Châu v..v… cũng như nhiều Châu Tỉnh khác nữa và Bắc phần nước Việt Nam hiện nay (từ Nghệ An giáp Hà Tĩnh trở ra)
Ở thời Thượng Hùng Vương (2959-1276 TCN), Nam giáp Đèo Ngang. Ở thời Hạ Hùng Vương (1276-258 TCN), Nam giáp Hồ Tôn, giáp giới Quảng Nam; Đông giáp biển Nam Hải, Đông Hải.
Nước Văn Lang thuở xưa vô cùng rộng lớn, được chia ra làm nhiều Bộ Quân Khu. Tính từ Bắc vào Nam Nước Văn Lang, mỗi Quân Khu có nhiều Châu; mỗi Châu có nhiều Quận, Huyện; mỗi Quận, Huyện có nhiều Xã nhiều Thôn. Vì nước Văn Lang quá rộng lớn nên Thôn, Xã, Quận, Huyện rất lớn. Dân cư thưa thớt, làng xã cách xa nhau.
– Đứng đầu các Bộ Quân Khu là Lạc Vương, Hầu Vương
– Đứng đầu các Châu là Lạc Tướng, Hầu Tướng
– Đứng đầu Quận, Huyện là Bố Chánh Trưởng Ti
– Đứng đầu xã là Lạc Dân, Lạc Điền
Nước Văn Lang xưa có 3 miền:
– Miền Nam Văn Lang chính là Việt Nam ngày nay
– Miền Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Khu vực Nam sông Trường Giang hay Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay.
Bắc Văn Lang hầu hết là toàn bộ nước Xích Quỷ (thời Kinh Dương Vương), rồi tới Trung Văn Lang, kế đến là Nam Văn Lang.
Bắc, Trung Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc, vì thế Việt Nam và Trung Nguyên Trung Quốc là một dải đất liền, trở thành hai nước láng giềng cùng một điều kiện địa lý. Chính vì vậy cho nên người Việt Nam Văn Lang và người Hoa Trung Quốc Trung, Bắc Văn Lang đã có quan hệ lịch sử rất lâu đời, từ thời đại Kinh Dương Vương chuyển sang thời đại Hùng Vương. Trung, Bắc Văn Lang trở thành Trung Nguyên rồi chuyển sang Trung Quốc đều nằm trong chủng tộc lớn Bách Việt. Vì nước Văn Lang có Bách Việt nên ở Trung Nguyên Trung Quốc vào thời đại Hùng Vương, đã đánh dấu đặt tên nhiều con sông như sông Dương để nói về thời đại Kinh Dương Vương khai lập nước Xích Quỷ. Sông Âu, sông Lạc để nói về thời kỳ Quốc Tổ Hùng Vương Thuyết Giáo Nguồn Gốc Nhân Loại sanh ra từ Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Đức Mẹ Trời Địa Mẫu Âu Cơ.
Nói về thời đại Hùng Vương, nước Văn Lang chia ra làm ba miền:
Nam Văn Lang chính là nước Việt Nam ngày nay.
Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay, hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, từ sông Dương Tử Trường Giang trở vào. Vì thế người Việt và người Trung Hoa không những cùng một điều kiện về địa lý, mà còn về chủng tộc họ tộc cũng rất giống nhau, trên một nguyên lý cơ bản là cùng chung Bách Việt Văn Lang có niên đại lịch sử hơn 10 nghìn năm, từ thời Kinh Dương Vương, phát Nguồn từ thời đại Viêm Đế Thần Nông.
Nước Văn Lang Có hai Kinh Đô chính:
– Kinh đô Nam Kinh Xích Quỷ.
– Kinh đô Văn Lang Nước Xích Quỷ được mở rộng vào Nam lên tới 23 Bộ thành nước Văn Lang.
Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ là Kinh Đô cổ có từ thời Viêm Đế Thần Nông trên đất Giao Chỉ (nay là Chính là Thành Phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) là Kinh Đô Quốc Phòng Kinh đô Bảo Vệ Lãnh Thổ Nước Văn Lang. Còn Kinh Đô Văn Lang là Kinh Đô Kinh tế trên vùng đất Phong Châu, Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ là Kinh Đô có từ thời Hùng Vương. Cũng từ đây nền Quốc Đạo Tiên Rồng mở màn Hiến Pháp nước Văn Lang. Thượng trị Quốc Đạo, Hạ trị Quốc Hội. Trên thi hành Đạo, dưới thi hành Luật, đồng nghĩa thời nay là Thượng viện Quốc Đạo, Hạ viện Quốc Hội, trên ban hành Công Đạo, dưới ban hành Công Luật. Nền Quốc Đạo thời ấy không truyền xuống dân mà chỉ truyền xuống Vua, Vua truyền xuống Quan ở hàng Vương tộc, Châu – Bộ…
Không phải ngẫu nhiên mà nước Văn Lang xưa có được sự Độc Lập kéo dài 2.701 năm ở Niên Đại Hùng Vương. Sự Độc Lập kéo dài của Niên Đại Hùng Vương đều có nền tảng cơ sở Văn Hiến của nó. Với đường lối trị Quốc Siêu Việt bằng VĂN HÓA CỘI NGUỒN, NỀN QUỐC ĐẠO TIÊN RỒNG dân tộc, trên thế giới này 5000 năm trở lại đây, chưa có một nhà nước nào duy trì được nền thịnh trị Độc Lập lâu dài như vậy.
Nhờ sống theo Văn Hoá Cội Nguồn nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc nên Vương, Quan ai nấy nhân cách, phẩm hạnh Đức Độ hơn người. Xứng đáng gương mẫu, đi đầu trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Đạo Luật tối cao nước Văn Lang. Nước Văn Lang vì thế trở thành đất nước văn minh hùng mạnh cả hai mặt Tinh Thần- Vật Chất. Dân giàu nước mạnh, luôn ổn định Chính Trị. Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì thiên hạ được 41 đời Thượng Hạ Hùng Vương. (Xem Kinh Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn)
Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương, đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14 có giặc Thượng Tây Hạ, giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang, nhưng bị quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn.
Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại bang thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miễn sao chiếm Đất, lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang, Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm càng về sau càng xâm lược quy mô lớn.
Chúng luôn luôn chực chờ cơ hội, nuôi mộng xâm lược bởi Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn:
1: Nền Văn Minh Hội Họa, Giao Tiếp
2: Nền Văn Minh Khai Thác, Tài Nguyên
3: Nền Văn Minh Rèn Đúc Dụng Cụ
4: Nền Văn Minh Lúa Nước
5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa
Cũng từ đây những câu chuyện lịch sử đầy giá trị về nhân cách đạo đức; trí huệ anh hùng; loại bỏ cái ác vươn tới cái thiện, tạo ra cuộc sống mùa Xuân của muôn nghìn sắc hoa sôi động rực rỡ và hạnh phúc; là tấm gương phản ảnh hiện thực cuộc sống; ca ngợi Đạo Đức; phê phán gian ác; loại bỏ phi nghĩa; tôn vinh chính nghĩa ra đời.
Những câu chuyện nổi tiếng các bạn có thể tìm đọc trong tuyển tập Long Hoa Lược Truyện:
Câu chuyện: Bát Cơm Chan Cát (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Quý Lân Quốc Vương đời thứ 2 trị vì từ 2880 đến 2796 TCN)
 Câu chuyện: Linh Vị Thờ Trời (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Cao Lang Quốc Vương đời thứ 6, trị vì từ 2572 đến 2498 TCN)
Câu chuyện: Có Nhân Có Đức Không Sức Mà Hưởng, Ông Tổ Thượng Điền (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Tâm Lang đời thứ 11, trị vì từ 2188 đến 2113 TCN)
Câu chuyện: Người Chồng Tốt (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Quế Lang Quốc Vương đời thứ 12, trị vì từ 2113 đến 2043 TCN)
Câu chuyện: Đức Trị Quốc (vào thời Thượng Hùng Vương, HÙNG LINH LANG: đời thứ 14, trị vì 2001 đến 1927 TCN)
Câu chuyện: Điệu Hò Trên Sông (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Châu Lang đời thứ 15, trị vì 1927 đến 1857 TCN)
Câu chuyện: Mài Đao Trên Đá (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Thục Lang đời thứ 18, trị vì 1705 đến 1634 TCN)
Câu chuyện: Câu Chuyện Hồng Trần Cuộc Đời Thanh Vân (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Yên Lang đời thứ 19, trị vì 1634 đến 1562 TCN)
Câu chuyện: Vạn Cốc Sơn (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Vĩ Lang đời thứ 20, trị vì 1562 đến 1486 TCN)
Sử Truyện: Long Phụng Hiệp Nghĩa; Câu chuyện: Người Con Gái Thông Minh (vào thời Thượng Hùng Vương, Hùng Dịch Lang đời thứ 23, trị vì 1342 đến 1276 TCN)
Sử Truyện: Sự Tích Trầu Cau ( vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Vân Lang đời thứ 1, trị vì 1276 đến 1211 TCN)
Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 1, Bách Việt Văn Lang Đại Chiến Quân Ân (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Tiên Lang đời thứ 3, trị vì 1141 đến 1077 TCN)
Câu chuyện: Cảnh Non Tiên (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Diệp Vương đời thứ 4, trị vì 1077 đến 1020 TCN)
Câu chuyện: Sự Tích Bánh Chưng Bánh Dày; Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 2- Lịch Sử Thánh Gióng Đại Chiến Quân Ân (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Huy Vương (Pháp Hải Lang) đời thứ 6, trị vì 961 đến 893 TCN)
Sử Truyện: Văn Lang Chiến Sự 3- Cha Con Doãn Thường Việt Vương Câu Tiễn nuốt trọn Bắc và Trung Văn Lang (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Việt Vương đời thứ 13, trị vì 569 đến 506 TCN)
Câu chuyện: Vay Trả, Trả Vay (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Nghị Vương đời thứ 17, trị vì 351 đến 306 TCN)
Những câu chuyện: Dương Gian- Âm Cảnh; Tiên Dung Và Chử Đồng Tử; Sự Tích Quả Dưa Hấu; Sơn Tinh Thủy Tinh; Sự Tích Thành Cổ Loa; Sự Tích Trọng Thủy Mỵ Châu (vào thời Hạ Hùng Vương, Hùng Duệ Vương đời thứ 18, trị vì 306 đến 258 TCN)
Và còn rất nhiều câu chuyện thú vị hấp dẫn khác đang chờ các bạn khám phá.
Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Quốc Tổ Dựng Nước 79 năm. Thời con cháu Giữ Nước 2.622 năm.
SAU ĐÂY LÀ TÓM TẮT SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI CỦA QUỐC TỔ
Quốc Tổ sinh ngày 20 tháng 2 năm Giáp Thìn, 2989 Trước Công Nguyên
– Quốc Tổ Họ Cao, tên Hùng Lan
– 16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý
– 22 tuổi Quốc Tổ chuyển Đại Pháp Luân khai Hội Long Vân tại vườn Cấm nằm ở phía Tây nước Xích Quỷ (nay chính là Vườn Quốc Gia Lão Sơn cách Thành Phồ Nam Kinh, tỉnh Giang Tô Trung Quốc, 37 km về phía Tây)
Theo niên lịch Đại Nam có từ thời Viêm Đế (đây cũng chính là Lịch mà người Phương Đông hay dùng gọi là Âm Lịch)
– Ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu, Quốc Tổ thuyết giáo nói ra Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ.
– 25 tuồi Quốc Tổ dẫn quân Âu – Lạc và nhân tài Chúng Hội Long Vân tiến về đất Địa Long Lãnh Nam, nằm ở phía Nam nước Xích Quỷ (Nay là Địa Long chữ S Việt Nam). Quốc Tổ cùng quân Âu – Lạc, tiêu diệt ba con Yêu Tinh Chúa Quỷ là Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh. Khai lập lên nước Văn Lang vào năm Mậu Thìn.
– 30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương nhằm vào ngày 2 tháng 9 năm Quý Dậu,
Năm 109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho Hùng Quý Lân vào năm 2880 trước Công Nguyên
– 79 năm Quốc Tổ ở ngôi Quốc Vương.
– 3 năm Quốc Tổ ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo.
Quốc Tổ thọ 112 tuổi. Về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 theo niên lịch Đại Nam Văn Hiến tức là vào năm 2877 Trước Công Nguyên.

PHẦN LƯỢC SỬ TỪ KHI QUỐC TỔ VỀ TRỜI CHO ĐẾN KẾT THÚC THỜI ĐẠI ÂU LẠC

Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non
Trăm tuổi có dư chưa an nhàn
Kia kìa Dân Chúng ôi còn khổ
Vẫn còn hộ đói khổ lầm than.
Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước, bận rộn cả đời không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng Ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào Ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân.
Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương, Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về Vật Chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa Tinh Thần . Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn lẫn sự sống của thể xác. Vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một. Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thì đẹp Đạo, tốt Đạo thì đẹp Đời. Tinh Thần Vật Chất song đôi tiến tới xã hội Chân Thiện Mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng, Văn Minh.
Kìa Non Nước thay da đổi thịt
Giàu từng ngày rừng rực ấm no
Đời nở hoa, ôi mùa Xuân Tổ Quốc
Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha.
Khi Quốc Tổ về trời, người có để lại lời di chúc cho Con Cháu Tiên Rồng, tiến về Nam xây dựng nhà Rồng Tiên nay chính là dãy đất hình chữ S, là đất nước Việt Nam hiện nay. ( Muốn biết nguyên văn lời di chúc của Quốc Tổ mời đọc Long Hoa Mật Tạng Kinh chương 20, phần 3, sẽ rõ).
Trước khi Quốc Tổ về trời có để lại di chúc là Người muốn được an nghỉ tại kinh đô Văn Lang( thuộc núi Nghĩa Lĩnh của Việt Nam bây giờ ). Vì sao Quốc Tổ lại di chúc như thế ? Phải chăng người đã tiên đoán trước được điều gì đó không hay cho Trung và Bắc Văn Lang?
Nguyên Văn lời di chúc của Quốc Tổ như sau:
Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt!
Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần Xuân đến, 84 lần Xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước, biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc Ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa. Với lý do vì Ta là Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tầng Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân.
Khi ta về Trời, thì Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ- Hai Đấng tối cao Linh Thiêng vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng họa, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiêng, không có Đấng nào Linh Thiêng hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặt hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm.
Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lãng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo thì Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất thì Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang, nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang. Ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang, mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai.
Địa Mẫu Âu Cơ- Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu có của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền Lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiêng vũ trụ, chỉ cần cảm nghĩ đến Mẹ là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ Lực khai thông mà thành tựu khoa học vật chất. Cũng như mọi sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo thành tựu đều có bàn tay nâng đỡ của Đức Cha Trời- Mẹ Trời, Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.
Ta sanh xuống chốn nhân gian là để nói rõ nguồn gốc Vũ Trụ, nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền Năng Tối Cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con cháu của Đức Cha Trời, Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian để cho Nhân Loại trở về với Cội, với Nguồn, đến với Đấng Ông Cha- Đấng tạo lập lên vũ trụ, sanh ra Nhân Loại con Người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang để sau này con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S- Thánh Địa Lãnh Nam Linh Thiêng siêu việt này. Là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa, cũng là Thánh Địa Linh Thiêng bảo bọc Nhân Loại con Người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10.
Nay Ta giao Địa Long Thánh Địa này cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào? Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất. Sau năm nghìn năm Ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai, Thiên Ấn trở lại, Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non, vì Nước, Hồn Trung Kiên, Hồn Tiết Liệt Nam Nữ, Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng bè Phái, không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc, mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc.
Những kẻ tôn thờ ngoại xâm; tôn thờ ác Đạo; vùi lấp truyền thống Dân Tộc; Bỏ Cội bỏ Nguồn; dù trung hiếu cho cách mấy, Tiết Liệt cho cách mấy, cũng chỉ là trung với Bè Đảng mà thôi, và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đọa, ngập chìm trong con đường ác. Mất thân Người khó mà đầu thai trở lại làm Người. Sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục, theo Luật Nhân Quả mà thọ lãnh quả báo.
Sau năm nghìn năm nữa, từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hóa lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là Thời Đại Dân Chủ Nhân Quyền Đa Đảng, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến Pháp ngụy tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước, sẽ được Nhân Dân ủng hộ. Không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc, thì Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiêng Dân Tộc, Khí Thiêng sông núi ủng hộ che chở.
Ý Trời đã thế thì xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời, đó là Ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ, Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển, cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần do lượng phù sa hàng năm, do nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh Khí. Đất sanh Linh. Khí – Nước – Đất giao hóa khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vầng Thái Dương tỏa sáng khắp Trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển.
Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi, yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu Tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bậc tu thiền luyện khí nhập định thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm Ta trở lại chốn Nhân Gian, lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi, và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp, động đất khắp nơi, nước dâng khắp chốn, mưa to bão lớn kinh hoàng, nhiệt độ tăng cao thiêu đốt, nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hóa đến chỗ thông Linh hướng Thiện, theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đọa rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính đều đọa lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông thì mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hóa Linh Hồn.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang,
Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, nền Hiến pháp Văn Lang, là thuyền lớn cầu lớn bắc qua sông mê đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn, phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha Ông trở về vũ trụ.
Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang,
Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thì người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thì người ấy hưởng, vì giang san vũ trụ này là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tang tóc chết chóc cho con người hết triệu năm này sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm, mưu mô quỷ quyệt vô cùng, biến giả thành chân che mắt cả Thần Thánh, huống chi chỉ là người thường tục thì chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh Giác của Linh Hồn con người.
Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh Giác:
Một là: Pháp Tạng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến Pháp, Pháp Tạng vũ trụ.
Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân Quyền Bình Đẳng. Những Quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã Ấn Chứng di truyền cho mỗi con người, không có Quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những Quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm.
Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng Xã Hội.
Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sáng Cứu Thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác này. Về thời mạt pháp, Tà Ma Ác Quỷ chúng giả tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền tỏa ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau tỏa sáng thiêu rụi Tà Ma Ác Quỷ, làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người.
Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng, nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng, một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn, còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông Linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa, tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều Yêu Tinh khác, và chúng không bao giờ quên mối thù con cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lợi là tiêu diệt Nước Văn Lang, tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt, Đồng Bào anh em tàn sát lẫn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ, chúng thấy Quân Dân Văn Lang hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ, hồn của ba con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S nên không chạy trốn về Phương Tây, mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang quên đi nòi giống Tiên Rồng, quên đi Nguồn Cội, đánh mất truyền thống dân tộc, chạy theo xu thế ngoại bang.
Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh, dẫn con cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hóa Cội Nguồn mất, Thiên Ấn tan biến chẳng còn, thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu? Thần Thông đến đâu? Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng Tối Cao Chúa Tể vũ trụ- Quyền Năng vô hạn- sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn, con cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn, Thờ phụng Tổ Tiên: Cha Trời Lạc Long Quân- Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hóa Cội Nguồn mà hành trì, thì Tà Ma Ác Quỷ cũng khó mà làm gì được.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang, phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì cũng không được bỏ Cội, bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn, nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước thì coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại bang, cảnh nô lệ ngoại bang, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ Ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến.
Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác kim thân Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vĩnh biệt Quân Dân cả Nước.
Từ ngày Quốc Tổ về Trời, Thái Thượng Quốc Mẫu Phụng Cơ còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quý Lân, con cả Quốc Tổ lên ngôi Vương (2.880 đến 2.796 trước Công Nguyên) được ba năm, Hùng Vương đời thứ hai, Trị Quốc không bao lâu thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lệnh Hùng Vương, có ý phản lại Bách Việt Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lệnh đem chém trước Bách Việt Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng.
Kể từ Sau sự đột biến đó, mọi việc đi vào Ổn định và trật tự. Nhờ vào nền Văn Hiến Quốc Đạo Tiên Rồng do Quốc Tổ truyền lại, Hùng Quý Lân Quốc Vương trị vì Thiên Hạ đạt đến đỉnh cao của Đạo trị Quốc (Vương Đạo). Bách Việt Văn Lang dân giàu nước mạnh, thái bình an lạc âu ca, ngủ không đóng cửa không người ăn trộm, vắng bóng ăn cướp. Tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc công bằng bình đẳng văn minh, tự do mưu cầu hạnh phúc. Thịnh trị hơn cả Vua Nghiêu, Vua Thuấn.
Đến đời Vua Hùng Vương thứ 14 thời Thượng Hùng Vương, Hùng Linh Lang Quốc Vương (2001 đến 1927 trước Công Nguyên) có giặc Thổ Phỉ ( Thượng Tây Hạ), giặc Hồ Quảng, Hồ Xương nổi lên dấy loạn biên cương ở Tây Bắc Văn Lang nay Thuộc Tỉnh Tứ Xuyên và một phần Tây Tạng Trung Quốc. Hùng Linh Lang cùng bá quan văn võ tiến cử người tài, chọn ra Võ Hầu tướng Quân thống lãnh 5 vạn quân đi dẹp giặc. Nhờ Đức Độ cùng Uy Linh của Nền Quốc Đạo do Quốc Tổ truyền lại, đoàn quân đi đến đâu được dân chúng, nhân tài hưởng ứng, tình nguyện gia nhập lên đến 5 vạn quân, cùng nhau giết giặc cứu nước nên giặc Thổ Phỉ, giặc Hồ Quảng, Hồ Xương bị tiêu diệt. Không những thế nhờ dùng Đức thâu phục dân chúng vùng biên giới nên cương vực của Văn Lang lại được mở rộng thêm.
Nước Văn Lang xưa nay có chủ
Giặc Hồ kia mơ ngủ xâm lăng
Tưởng rằng Bách Việt dễ ăn
Nào hay bỏ mạng thây phơi khắp cùng
Một Dân Tộc Tiên Rồng bất khuất
Lòng hiếu trung cao vút trời mây
Vì non vì nước chung tay
Triệu người như một bủa vây khắp cùng
Giặc Hồ bỏ mạng tiêu đời
Xâm lăng Bách Việt chẳng còn một tên.
Vào đời Hùng Vương thứ 18 Thượng Hùng Vương, Hùng Thục Lang (1705 đến 1634 trước Công Nguyên). Khi ấy ở phương Bắc Nhà Thương, Vua Thành Thang nối truyền đến đời thứ mười ba Tổ Dân Thiên Tử có mộng xâm lấn nước Văn Lang, luôn cho người theo dõi nước Văn Lang và ngày đêm thao luyện binh mã chờ ngày xâm lược và ngày đó đã đến.
Năm 1147 trước Công Nguyên vào cuối đời thứ hai đến đầu đời thứ 3 Hạ Hùng Vương, Thời Hùng Tiên Lang Quốc Vương (1141 đến 1077 trước Công Nguyên), phía Bắc Ân Thọ (Trụ Vương) huy động một lực lượng khổng lồ bao gồm 50 trấn chư hầu lớn nhỏ với quy mô hơn 200 vạn quân chia làm 4 đạo quân do Vi Tử Điển, Vi Tử Khải, Ngạc Sùng Cảnh, Khương Hoàng Nhân tiến đánh nước Văn Lang. Nhờ biết lợi dụng địa hình cộng với nền Quốc Đạo Tiên Rồng uy linh, gươm Thiên trấn Quốc do Quốc Tổ Truyền lại nên Quân Dân Văn Lang ta với 100 vạn quân do Cha Con Hùng Diệp Lang, anh em Cao Lạc Hầu, Hùng Cao Lang, Tây Thục Vương chỉ huy đã đánh bại Quân Ân một cách hào hùng vào năm 1139 trước Công Nguyên. Đây là cuộc chiến hào hùng của dân tộc thể hiện tinh thần giữ nước của con cháu Rồng Cháu Tiên.
Sau cuộc chiến với quân Văn Lang nhà Ân suy yếu. Vua Trụ càng ngày càng tàn ác, mê say tửu sắc, dâm loạn vô cùng, trở thành một hôn quân Vô Đạo, đi ngược lại Đạo Đức, nghe theo lời tà Ma ngoại Đạo, Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, trộm cướp nổi lên khắp mọi nơi, các cuộc đàn áp nổi lên khắp chốn không còn luật lệ gì nữa, những Trung Thần phản ảnh can gián liền bị xử tử.
Đã thế Ân Trụ Vương còn chọc giận đến các Thánh Linh và Nữ Oa Nương Nương, là một trong những số Thánh Linh ấy. Yêu Tinh ra phò Ân Trụ Vương mỗi lúc một nhiều làm hại muôn dân, các Trung Thần khuyên can không được bị Vua Trụ ép vào đường cùng đành phải làm phản. Tạo ra một thế lực lớn chống trả lại triều Ân Vua Trụ. Thế lực chống trả đó đứng đầu là Tây Bá Hầu Chu Văn Vương, sau này bị Chu Võ Vương, Cơ Phát lật đổ, thành lập nhà Chu vào năm 1122 trước Công Nguyên. (xem Văn Lang Chiến sự 1 sẽ rõ).
Cùng thời này ở Phương Nam Văn Lang có binh biến. Chiêm Chiêm Vương bị em họ là Hồ Chiêm Quân dẫn 10 vạn quân đánh úp chiếm đoạt ngôi vị.
Hồ Chiêm Quân sau khi giết anh họ của mình liền dẫn 10 vạn quân buộc dân chúng đi theo tiến sâu vào đất Lĩnh Nam hàng nghìn dặm, mang theo nền Văn Minh lúa nước, nói chung là Ngũ Cốc được dân chúng mang theo sâu vào Nam. Không những nền Văn Minh lúa nước mà cả nền Văn Minh sắt thép, đồng, thau, chạm trổ hội họa, chăn tằm dệt cửi, gốm sứ, dựng lên nền Văn Minh Chăm, trong đó có nền Văn Minh gốm sứ Sa Huỳnh.
Hồ Chiêm Quân xưng Đế xưng Vương biệt lập, không theo lệnh của Vua Hùng nữa. Cũng từ đây, Hồ Chiêm Quân không cho nhắc tới Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng- nền Quốc Đạo Dân Tộc nữa, tất cả đều bỏ lại sau lưng dần dần, phai mờ và quên lãng.
Phải chăng quên mất Đạo Trời
Họa tuôn máu đổ đầu rơi khắp cùng
Quên đi lời dạy Vua Hùng
Anh em tàn sát họ hàng máu tuôn
Nồi da nấu thịt sớm hôm
Từ đây Bộ Lạc Chiêm Vương khổ sầu
Chia đàn rẽ nghé tan bầu
Lê dân khốn khổ biết đâu Cội Nguồn
Đồng Bào chung một con đường
Đại Đồng bình đẳng náo nương về Trời
Thánh Thần Tiên Phật đây rồi
Do tâm mê ngộ, tạo thời mà nên
Ác thời thành Quỷ thành Tinh
Thiện thời thành Phật, thành Tiên, Thánh Thần
Hồ Chiêm lạc lối đã đành
Kéo theo vô số dân lành khổ sa
Từ đây binh lửa can qua
Đầu rơi máu đổ tai bay họa cùng
Khi nào lời dạy Vua Hùng
Tái sanh trần thế Tiên Rồng nở hoa
Văn Lang sống dậy lời ca
Thái bình Độc Lập nở hoa thái bình
Chiêm Vương trở lại hồi sinh
Hồ Chiêm phải chịu cực hình trước dân
Trước muôn vạn ức Thánh Thần
Trị trừng cái tội ngông cuồng nay xưa.
Hậu Duệ của Hồ Chiêm Quân cùng với những người theo Hồ Chiêm Quân sau này chính là dân tộc của các nước ASEAN. Cho nên dân tộc Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với họ cho đến ngày nay.
Vào thời Hùng Huy Vương từ năm 961 đến 893 trước Công Nguyên, do quá trình truyền khẩu sai lệch lâu dài về Văn Hóa Cội Nguồn, cộng thêm sự hấp thụ Văn Hóa phương Bắc theo mưu đồ của Thái Công Vọng Khương Thượng (Khương Tử Nha), Sở Linh Công (Vua Sở) và Ngô Thái Bá cùng với em Ngô Trọng Ung (vua Nước Ngô) nhằm nuốt trọn Văn Lang, nên Bắc Văn Lang nhiều anh hùng nổi lên đòi tự trị lập nước riêng, xưng Vua này Vua nọ như phương Bắc. Sự nổi lên đòi tự trị ấy được hậu thuẫn từ các nước lân cận trấn chư hầu Nhà Chu, Bắc Văn Lang trở thành bãi chiến trường cho sự bùng nổ lên nhiều phe phái, hình thành lên nhiều Vua, Chúa tự trị riêng mỗi vùng, rồi thôn tính nhau theo kiểu phương Bắc.
Lúc ấy nhà nước Văn Lang cũng đã bắt đầu suy yếu, là do mất đi những điều cơ bản của nền Văn Hiến- Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc, dẫn đến độc quyền, độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại nghe theo sự xúi giục của các thế lực tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang. Dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái ở Bắc Văn Lang, nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa, dẫn đến nồi da nấu thịt ở Văn Lang. Từ đây chính là Cơ Hội cho Giặc Phương Bắc Xâm Lược.
Năm 961 trước Công Nguyên, Ân Mao là con cháu của Trụ Vương Đắc Kỷ còn sống sót, lập lên nước Man Du (hậu Ân) cách Tây Bắc Văn Lang hơn 100 dặm. Liên thông với nước Hồ, nước Hung Nô, gọi chung là ba nước Phiên Ngung. Ba nước này liên kết với nhau với lực lượng lên đến 90 vạn quân chia làm 3 đạo quân do Ân Mao, Hung Nô Vương (Vua Hung Nô), Hồ Nghi Vương (Vua Hồ) tiến đánh nước Văn Lang thế mạnh như chẻ tre. Quân dân Văn Lang vì mất đi nền Quốc Đạo Tiên Rồng, không còn tường đồng vách sắt nên đánh đâu thua đó một cách đau đớn. Cho đến năm 930 trước Công Nguyên, Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) Thống Lĩnh Quân Dân Văn Lang đánh tan tác 90 vạn quân Giặc một cách thần tốc. Ân Mao, Vua Hồ, Vua Hung Nô bỏ mạng chết không toàn thây. Di tích cuộc chiến hiện tại chính là vùng đất thuộc tỉnh Giang Tô, An Huy, Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang Trung Quốc ngày nay. Tiền thân của Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) chính là Đức Long Đế Sùng Lãm- Kinh Dương Vương đời thứ nhất. (xem Văn Lang Chiến sự 2 – Lịch Sử Thánh Gióng sẽ rõ).
Sau 300 năm độc lập từ khi Thánh Gióng dẹp giặc Phiên Ngung (là ba nước Man Du-hậu Ân, Hồ, Hung Nô). Lúc này tình hình nhà nước Văn Lang tồi tề hơn Thời của Hùng Huy Vương. Ở thời Này Vua, Quan càng sống theo xu thế của Văn Hóa Phương Bắc dẫn đến độc quyền, độc tài, độc trị, sa vào con đường lìa xa dần dân chúng, làm mất lòng tin dân chúng. Dân chúng lại càng nghe theo sự xúi giục của các thế lực tham vọng bành trướng phương Bắc, nhất là những nước lân cận Bắc Văn Lang, dẫn đến nội loạn chia bè rẽ phái. Bắc Văn Lang nổi lên đòi tự trị từng vùng xưng Vua xưng Chúa. Có sự hậu thuẫn từ phương Bắc nên các Vua Hùng từ đời 11, 12, 13, ra sức dẹp nội loạn Bắc Văn Lang nhưng không dẹp nổi, vì người dân đã ngã theo Văn Hóa phương Bắc, Văn Hóa của sự xưng hùng xưng bá, Văn Hóa chia bè rẽ phái, hình thành lên quá nhiều khu tự trị hùng mạnh. Những ông Vua Việt nổi lên như Vua Điền Việt, Vua Mân Việt, Vua Dương Việt, Vua Đông Việt, Vua Nam Việt, Vua Lạc Việt, và nhiều vị Vua Việt khác nữa. Sau này các Vua Việt tự xưng này bị cha con Doãn Thường thôn tính, tiêu diệt và thành lập nước Việt Trung Nguyên.
Vào thời Hùng Tuân Lang đời thứ 13 hạ Hùng Vương từ năm 569 đến năm 506 trước công nguyên Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt từ khi cha con Doãn Thường nổi lên thành lập nước Việt Trung Nguyên vào ngày 3 tháng 2 năm 545 trước Công Nguyên.
Ông Bà, Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ, con thứ hai của Vua Thiếu Khang đời nhà Hạ Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ, Vua Kiệt đắm say tửu sắc, lại bất trí không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần đi chinh phạt các nước, Vua Vũ bị Vua Kiệt nhà Hạ truy sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương Nam- Bắc Văn Lang giả làm dân thường sanh sống, rải rác nhiều nhất là ở đất Cối Kê.
Vua Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê ( nay là địa phần gần với Thành Phố Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc hiện nay), mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể nên Vua Vũ mua rất nhiều ruộng đất trở nên giàu có không khác gì những người giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế, Vua Vũ còn giúp đỡ các quan tướng đi theo mình ở rải rác khắp đất Bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự giàu có nên chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt – Âu Việt, Vua Vũ truyền bá những người đi theo mình cắt tóc, xăm mình, trở thành dân Âu, dân Việt nhưng không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt, mà duy trì lối sống dung hòa Bách Việt, lối sống hòa hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình. Lối sống bí mật hình thành lên nghiệp Vương tương lai về sau trong các thời con cháu.
Trong thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thì nhà Hạ là người nhân đức trung hậu, nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thì hoang dâm vô độ, độc ác vô cùng, phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn sát các nước, giết hại trung thần, bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vua Vũ không muốn trở về đất Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng, có thể làm nên nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau.
Sao gọi là nuôi mộng cho đời sau?
Có nghĩa là duy trì dòng tộc theo Văn Hóa trung hòa hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đỡ người Phương Bắc di cư đến Bắc Văn Lang để ở nhằm nuôi lớn cái Gốc tự trị, củng cố thế lực Xã Hội, cho đến khi hội tụ đủ thời cơ thì nổi dậy xưng Vương.
Vua Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang, người nào người nấy trở nên giàu có không kém gì người giàu ở bản địa- dân chính gốc Bắc Văn Lang. Đến đời thứ 20, con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Tri Huyện. Đến đời thứ 30 thời con cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu, các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã Hội ở khắp đất Bắc Văn Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương xưng Bá.
Đến đời thứ 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu Sông Lạc ( Hiện tại là Thành Phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang Trung Quốc)
Thấy tình thế Bắc Văn Lang mất Gốc Văn Hóa Cội Nguồn; nền Quốc Đạo không còn; Nhà Nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo; nhà nước của sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị; Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là Quan lạc Cội Lạc Nguồn, chỉ biết củng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân, trở thành tham Quan nổi lên khắp nước nhất là Bắc Văn Lang. Tham Quan không những đắm say tửu sắc, chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất, mà còn trở thành mê tín dị đoan chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Chỉ biết quyền lực, tham ô hối lộ, dẫn đến làm hại dân hại nước, nhất là thể chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị càng ngày càng hà khắc của các Vương Quan tha hóa. Dân chúng Bách Việt Bắc Văn Lang chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng, không trông mong gì nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh. Mơ ước có sự thay đổi nên chỉ cần có một tia lửa thương dân nổi lên thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho Con Cháu Vua Vũ, Doãn Thường nổi lên xưng Vương.
Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ này như quả mít chín muồi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đem lại quyền lợi cho dân, tức thời bùng cháy chiến tranh ngay không cách gì dập tắt được. Nhất là Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, sự đoàn kết của dân tộc không còn, non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màn u minh. Khi Dân tộc Văn Lang mất đi nguồn gốc truyền thống anh linh đương nhiên phải héo cành rũ ngọn. Cội Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không còn nghĩ gì đến non sông Tổ Quốc nữa. Mạnh ai người nấy đi theo chí hướng riêng. Tất cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo, có thể nói là phản bội lại non sông Tổ Quốc.
Doãn Thường là nhà Quân Sự Chính Trị tài năng lỗi lạc, hiểu rõ tình thế xã hội, hiểu rõ nguyện vọng của dân, hiểu rõ tâm lý của dân và cũng hiểu rõ nói láo là mẹ đẻ của chính trị, dẫn đến thắng lợi thành công. Với câu khẩu hiệu: “Tất cả đấu tranh là vì Dân. Giải phóng bóc lột cho Dân. Giải phóng nô lệ cho Dân. Đem lại quyền sống quyền tự do cho Dân. Ai cũng có đất ruộng để cày. Lập lên Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Quân Đội của Dân vì dân mà chiến đấu. Vì Dân mà quên mình. Bảo vệ độc lập tự chủ, xóa bỏ nô lệ. Lập lên một Xã Hội Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Văn Minh. Thoát khỏi ách Độc Tài Độc Trị. Thoát khỏi thể chế xin cho. Thoát khỏi tham quan tàn bạo. Lập lên nước Việt Trung Nguyên dân giàu nước mạnh thay thế cho nhà nước Văn Lang- Nhà Nước độc tài độc trị, đi ngược lại di chí Quốc Tổ Vua Hùng”
Tất cả ngôn từ văn từ như một liều thuốc bổ. Dân chúng theo Cha Con Việt Tế Gia như nước vỡ bờ.
Ngày 3 tháng 2 năm 545 trước Công Nguyên, cha con Doãn Thường triệu tập các Vua Việt hội nghị tại đất Cối Kê, nơi đền thờ Vua Vũ từ thời Nhà Hạ đến Phương Nam – đất Cối Kê lập nghiệp. Hơn mấy mươi Vua Việt ở Đông Bắc Văn Lang, Tây Bắc Văn Lang, đều tới dự hội đông đủ. Gọi là Hội Liên Minh Việt Bắc Văn Lang.
Nơi đất Cối Kê đền Thờ Vua Vũ, Doãn Thường như một vị anh hùng biện tài vô ngại, thuyết phục các Vua Việt mới nổi lên đòi tự trị liên minh thành một khối, trở thành một nhà nước mới- Nhà Nước Trung Thổ Việt Trung Nguyên.
Sau khi thành lập nhà nước Việt Trung Nguyên, cha con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên, xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất.
Bắc Văn Lang bị cha con Doãn Thường cướp trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về Phương Bắc chuyển thành Trung Quốc.
Tất cả những di tích Văn Hóa cũng như danh nhân, những người có công với đất nước Văn Lang bị xóa sạch. Thay thế vào đó là Văn Hóa Phương Bắc, thờ phụng những người có công ăn cướp Bắc Văn Lang, lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên mà thôi. Chỉ còn sót lại những di tích thời Viêm Đế Thần Nông- Ông Tổ sáng lập lên nền Văn Minh lúa nước. Từ 10 đời niên đại Viêm Đế Thần Nông truyền xuống niên đại Kinh Dương Vương- 9 đời. Đến đời thứ 10 thời chuyển sang niên đại Hùng Vương- 41 đời. Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời.
Cha con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang và biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên, thì không những Văn Hóa truyền thống Văn Lang bị xóa sạch, mà những di tích 41 đời Hùng Vương cũng như các Công Thần có công chống ngoại xâm giữ nước cũng đều bị xoá không còn. Thay thế vào đó là Văn Hóa Trung Nguyên mới sáng lập cũng như những danh nhân đã có công cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên.
Cha con Doãn Thường làm như thế là để cho Bắc Văn Lang sẽ dần dần biến mất không còn tồn tại nữa. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu theo về Phương Bắc thì Trung Nguyên Bắc Văn Lang lại tiếp tục xóa sạch những di tích Văn Lang còn sót lại. Di tích 9 đời Kinh Dương Vương chỉ còn sót lại thời Viêm Đế Thần Nông. Kể từ khi nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời thì nước Văn Lang chỉ còn Trung Văn Lang, Nam Văn Lang mà thôi.
Về sau có thơ rằng:
Doãn Thường cướp lấy Văn Lang
Xưng Vương xưng Đế nối nhau đời đời
Nào hay Phương Bắc nuốt rồi
Cáo già đã giả con trời còn chi
Tiếng đời để lại bia ghi
Phản non hại nước mấy khi trường tồn
Thảm thương con cháu Tiên Rồng
Lạc Nguồn lạc Cội mắc vòng khốn nguy
Thiên Đàng đã mất lối đi
Hồn sa Địa Phủ Âm Ti nghìn trùng.
Khi cha con Doãn Thường lên ngôi Việt Vương biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên thì những di tích Văn Hóa Văn Lang từ thời Kinh Dương Vương đến thời Đại Hùng Vương đều xóa sổ không cho dân chúng nhắc tới nữa. Thay thế vào đó là một số di tích Văn Hóa mới- Văn Hóa thời đại Trung Nguyên. Thờ phụng những người có công nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang. Thay đổi một số tên sông chẳng hạn như sông Dương Tử đổi tên thành sông Trường Giang. Thay đổi một số tên núi. Thay đổi tên Châu, Bộ. Thay đổi tên Kinh Đô từ Kinh Đô Xích Quỷ thành Kinh Đô Trung Nguyên. Nói chung là thay đổi hầu hết danh từ mới thay cho danh từ cũ.
Văn Hóa Truyền Thống Văn Lang dần dần biến mất không còn. Đều đáng nói ở đây, cha con Doãn Thường biến nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xảo ngôn truyền bá đất Trung Nguyên là do công lao Vua Vũ khai lập ra. Thế hệ đời sau bị mắc lừa cho rằng công lao Vua Vũ thực là to lớn, dẫn nước 9 con sông làm cho 9 Châu có thể ở được. Con Cháu Vua Vũ Đến thời Việt Vương Câu Tiễn đánh bại nước Ngô, trả đất lại cho nước Sở, trả đất lại cho nước Lỗ mà nước Ngô đã chiếm lấy.

Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi, thay thế vào đó là những di tích Văn Hóa mới- Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương thì sông Trường Giang chính là sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử là sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang thì chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang không còn gọi là sông Trường mà gọi là sông Hán. Sông Kinh, sông Âu, sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang.
Nói tóm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thì những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa sạch tới đó. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo Phương Bắc nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài của Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.( xem Văn Lang Chiến sự 3 sẽ rõ).
Vào thời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang (506 đến 456 trước Công Nguyên). Năm 496 TCN, Doãn Thường qua đời (khi ấy là thời Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang lên ngôi đã 10 năm), con của Doãn Thường là Câu Tiễn lên thay. Tình hình Bắc Văn Lang vẫn không mấy sáng sủa, vua Hùng mang quân đi dẹp loạn nhưng không được vì Nhà Nước Việt Trung Nguyên vẫn còn đang rất mạnh và được dân Bắc Văn Lang ủng hộ.

– Cùng năm, Hạp Lư, Vua Nước Ngô mang 10 vạn quân vượt sông Trường Giang tiến đánh nước Việt Trung Nguyên nhưng bị quân Việt Trung Nguyên đánh bại. Hạp Lư vì thất bại uất hận qua đời. Phù Sai lên ngôi thay cho cha, ngày đêm luyện binh mã chờ ngày phục thù.

– Năm 493 TCN, Câu Tiễn tiến đánh nước Ngô bị Ngô đánh bại, đi tiêu 10 vạn quân ở Phù Liêu. Câu Tiễn dẫn tàn quân về Cối Kê thì bị bao vây. Cùng lúc đó Hùng Ánh Vương cho 20 vạn quân tiến ra Bắc dẹp loạn, nhưng không thể tiến đánh vào Bắc Văn Lang được. Sau khi bị đánh bại, Câu Tiễn hàng nước Ngô và cống nạp rất nhiều của cải lẫn mỹ nữ cho Ngô Vương trong đó có Tây Thi. Ngô Vương bắt Câu Tiễn làm tù binh trong 3 năm, từ đây điển tích ẩn nhẫn chờ thời (nếm mật nằm gai) và mỹ nhân kế ra đời.

– Sau 3 năm tức là năm 490 TCN, Câu Tiễn được trả về nước Việt Trung Nguyên và tiến hành xây dựng lực lượng trong hơn mười năm chờ phục thù nước Ngô. Vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi không lo chính sự, nghe lời nịnh thần Bá Hi giết chết các trung thần như Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) và không đề phòng Câu Tiễn.

Năm 493 trước Công Nguyên, Câu Tiễn tiến đánh nước Ngô bị Ngô đánh bại, đi tiêu 10 vạn quân ở Phù Liêu. Câu Tiễn dẫn tàn quân về Cối Kê thì bị bao vây. Cùng lúc đó Hùng Ánh Vương cho 20 vạn quân tiến ra Bắc dẹp loạn, nhưng không thể tiến đánh vào Bắc Văn Lang được. Sau khi bị đánh bại, Câu Tiễn hàng nước Ngô và cống nạp rất nhiều của cải lẫn mỹ nữ cho Ngô Vương trong đó có Tây Thi. Ngô Vương bắt Câu Tiễn làm tù binh trong 3 năm, từ đây điển tích ẩn nhẫn chờ thời( nếm mật nằm gai) và Mỹ Nhân Kế ra đời.
Sau 3 năm tức là năm 490 trước Công Nguyên, Câu Tiễn được trả về nước Việt Trung Nguyên và tiến hành xây dựng lực lượng trong hơn 10 năm chờ phục thù nước Ngô. Vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi không lo chính sự, nghe lời nịnh thần Bá Hi giết chết các trung thần như Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) và không đề phòng Câu Tiễn.
– Năm 474 TCN, Câu Tiễn tiến quân đánh úp nước Ngô. Nước Ngô thua to nên giảng hoà. Câu Tiễn cho giảng hoà trong 4 năm.
– Năm 470 TCN, Câu Tiễn mang quân tiến đánh quân Ngô. Quân Ngô thất bại, Ngô Vương xin hàng nhưng Phạm Lãi can Câu Tiễn, vì thế Phù Sai tự sát. Câu Tiễn lập mưu giết Bá Hi để che đậy tội ác. Sau khi thôn tính nước Ngô, Câu Tiễn tiến hành lên kế hoạch sát nhập nước Việt Trung Nguyên (Bắc Văn Lang) vào tay nhà Chu Phương Bắc.

Về sau có thơ rằng:

Ai thâm hiểm cho bằng Câu Tiễn
Giết Bá Hi vì sợ Bá Hi
Rắn độc mà ở kề bên
Có ngày nó cắn nát tan cuộc đời
Nên nói dối an lòng Ngô chúng
Trả hận thù tướng quốc Ngũ Viên
Lương tâm gian trá vô biên
Tránh đâu cho khỏi đảo điên cơ đồ
Đem đất Việt dâng về phương Bắc
Mua công danh cấu kết ngoại bang
Làm cho nước Việt nát tan
Văn Lang đất Bắc hết mong trở về.

Việt Vương Câu Tiễn hòa hảo với các trấn chư hầu đất Bắc như Tề, Tấn v.v… cùng một số trấn chư hầu khác hội họp ở Từ Châu tùng phục theo Nhà Chu. Vua Nguyên Vương nhà Chu phong cho Việt Vương Câu Tiễn là VIỆT BÁ VƯƠNG làm chủ phương Đông. Việt Vương Câu Tiễn cúi đầu dâng Việt Trung Nguyên cho Phương Bắc. Tức thời đất Việt Trung Nguyên lại chuyển sang một giai đoạn mới, không còn độc lập tự trị nữa mà trở thành TRUNG QUỐC.
Vì sao lại có nguyên nhân sâu xa như thế?
Vì Ông Cha Câu Tiễn là người phương Bắc, tôn thờ Văn Hóa Phương Bắc chứ không tôn thờ Văn Hóa Phương Nam dù biết rằng dòng họ Vua Vũ đã nhập cư thành dân Văn Lang. Tư tưởng Việt Vương Câu Tiễn thừa kế di chí Ông Cha thà Việt Trung Nguyên mất về Phương Bắc còn hơn mất về Phương Nam, trả Bắc Văn Lang về cho nước Văn Lang.
Vì Việt Vương Câu Tiễn biết rõ, nếu quân Văn Lang chiếm lại được Bắc Văn Lang thời Tổ Tiên thái miếu Việt Vương Câu Tiễn sẽ bị san bằng hủy diệt với cái tội phản bội lại nước Văn Lang. Với ý nghĩ này, Việt Vương Câu Tiễn có xu hướng ngả về Phương Bắc, sẵn sàng dâng nước Việt Trung Nguyên cho phương Bắc nếu có cơ hội tiến thân và đúng vậy. Việt Vương Câu Tiễn dâng nước Việt Trung Nguyên cho nhà Chu ở vào thời Chu Nguyên Vương vào năm 469 trước Công Nguyên, từ đây Bắc Văn Lang chính thức mất vào tay Phương Bắc.

Đây nói về Phạm Lãi và Văn Chủng đều là đại công thần của nước Việt Trung Nguyên ra phò Câu Tiễn. Phạm Lãi là dân Bách Việt Văn Lang, thấy Việt Vương Câu Tiễn đem dâng nước Việt Trung Nguyên cho Nhà Chu thời vô cùng bất mãn khuyên can mấy lần. Câu Tiễn không nghe cứ làm theo ý mình nhưng trong lòng có ý dè chừng Phạm Lãi. Phạm Lãi có ý bỏ Việt Vương Câu Tiễn khi còn ở Từ Châu nhưng còn chần chừ chưa dứt khoát. Khi về nước Ngô Phạm Lãi mới dứt khoát biết nếu mình ở lại thời cái chết không biết lúc nào bằng bỏ đi. Phạm Lãi vượt qua Tam Giang, Ngũ Hồ nhìn lên trời mà than rằng:
“Ta có tội với Bách Việt Văn Lang! Anh Hùng Lạc Đạo tôn thờ tên ác Bá kẻ bán nước phản bội Ông Cha.”
Phạm Lãi trước khi bỏ Việt Vương Câu Tiễn mà đi có một bức thư cho quan đại phu Văn Chủng. Một hôm Văn Chủng vừa ra khỏi cung thời có một người đưa cho Văn Chủng một bức thư nói rõ bộ mặt lang sói của Câu Tiễn. Nội dung như sau: Chim đã hết thời cung nỏ phải cất. Thỏ khôn đã chết thì chó săn lại bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu. Con người chỉ vì danh lợi cá nhân. Đem đất Bắc Văn Lang cầu vinh mà dâng cho phương Bắc Nhà Chu. Một con Cáo Già đã lộ cái đuôi chồn lòng dạ hiểm sâu nói một đường làm một nẻo, giả nhân giả nghĩa lừa gạt tấm lòng tốt của người dân Bách Việt khi hiểu ra thì mọi việc đã rồi. Nếu Ngài không bỏ đi tất có tai họa vì Ngài rất yêu Bắc Văn Lang
Văn Chủng nhận được thư của Phạm Lãi trong lòng lấy làm căm hận cho cuộc đời mình anh hùng lạc đạo tôn thờ một kẻ bán nước. Văn Chủng bật khóc từ đó cáo bệnh không vào chầu nữa. Có người gièm nói Văn Chủng làm phản.
Việt Vương Câu Tiễn đến nhà đưa kiếm cho Văn Chủng rồi nói:
“Nhà ngươi thường dạy quả nhân bảy thuật để đánh Ngô. Quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta mà diệt Hùng Ánh Vương, Chân Nhân Lang, thời công ngươi mới to tác hơn nữa.”
Văn Chủng nhìn lên trời nói lớn:
“Con đã biết sai xin Bách Việt Văn Lang tha tội cho con.”  Văn Chủng nói xong liền tự sát
– Cùng năm 470 TCN, Câu Tiễn nghị hòa với Hùng Ánh Vương, phân chia Nam – Bắc không ai xâm phạm đến ai nữa. Từ đó Việt Vương Câu Tiễn không còn lo chiến tranh, cao ngạo tàn độc. Trung thần can ngăn đều bị giết sạch, ăn chơi trác táng còn hơn cả Vua Ngô.
Nhà nước Việt Trung Nguyên độc lập tự chủ chỉ trên dưới 70 năm (545-469 TCN). Sau khi Câu Tiễn mất, nhà nước Việt Trung Nguyên bắt đầu tan rã từ năm 468 đến 425 TCN là tan rã, do Dân tộc Bách Việt nổi lên lật đổ triều đại Việt Vương Câu Tiễn với cái tội: “Việt Vương Câu Tiễn bán đứng Việt Trung Nguyên cho nhà Chu”.
Tóm lại: Bắc Văn Lang bị cha con Doãn Thường cướp trở thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn tùng phục Nhà Chu, Bắc Văn Lang Trung Nguyên nhập về phương bắc chuyển thành Trung Quốc. Kể từ đây trở về sau, không những chúng ta mất Bắc Văn Lang, mà Trung Văn Lang cũng chịu chung số phận bị mất vào tay Phương Bắc. Đây chính là bãi chiến trường đầu rơi máu đổ qua các thời kỳ lịch sử Trung Quốc.

Đến thời Hùng Duệ Vương đời 18- Hạ Hùng Vương (306 đến 258 trước Công Nguyên) tình hình càng ngày càng tồi tệ, Bắc Văn Lang không còn, hơn hai phần Trung Văn Lang đã mất, chỉ còn Nam Văn Lang và một phần Trung Văn Lang.
Triệu Việt Vương con cháu nhiều đời của Triệu Phàn, Triệu Công theo phò cha con Doãn Thường đang đóng quân ở Nam Hải tiến đánh phần còn lại của Trung Văn Lang. Địa Phận Nam Hải nay thuộc tỉnh Quảng Đông Trung Quốc bây giờ. Nơi đây chính là nơi Tiên Dung và Chử Đồng Tử chung sống với nhau.
Sau thất bại cuộc chiến với Triệu Việt Vương, tướng Dương Lương bỏ mạng, cuối cùng Trung Văn Lang cũng mất vào tay giặc. Tây Thục Vương chính là Thục Phán mất cánh quân Dương Lương, lâm vào thế yếu rút về Tây Nam Văn Lang.
Vào thời kỳ này, Phương Nam quân Hồ Nam( hậu duệ của Hồ Chiêm Quân) tiến đánh phía Nam của Nam Văn Lang bị quân Văn Lang đánh dẹp, từ đây điển tích Mai An Tim ra đời. Mai An Tim là con của thống tướng Mai Yển dân tộc Chăm, đang thống lĩnh ba quân trấn thủ Phương Nam của Nam Văn Lang bị tử trận trong cuộc chiến với Quân Hồ Nam.
Vua Hùng Vương đời thứ 18 có con trai nhưng chết yểu lúc còn nhỏ thành ra không có con trai kế vị, nên nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn. Khi ấy Tây Văn Lang, Thục Phán là cháu 20 đời của Thục Lao. Bà Cố của Thục Phán là Công Chúa Hùng Vương đời thứ 15- Hùng Triều Vương (Cảnh Chiêu Lang).
Thục Phán thấy Hùng Duệ Vương không có con trai, lại bỏ bê chính sự, nịnh thần lộng hành, không sớm thì chầy cũng bị ngoại xâm nuốt chửng. Nghe Vua Hùng chuẩn bị nhường ngôi cho con rể tức là Tản Viên Sơn Thánh (Nguyễn Tuấn), Thục Phán tức giận, huy động chín Chúa khắp Tây Văn Lang. (Chín Chúa Tây Văn Lang là cháu trên 20 đời của Tây Thục Vương) huy động 30 vạn quân kéo về thành Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi.
Hùng Duệ Vương có trao binh quyền cho Tản Viên Sơn Thánh chống trả lại Thục Phán. Sơn Tinh -Tản Viên Sơn Thánh nghe tin Thục Phán vô tình gặp Rùa Thần, Rùa Thần dẫn Thục Phán đến hang động bí mật nơi Quốc Tổ Vua Hùng luyện Bảo Kiếm. May thay nơi đây còn sót lại bí quyết luyện thép của Quốc Tổ Vua Hùng và Thục Phán đã luyện được thép thành công. Thục Phán cho người rèn đúc ra kiếm, ra tên vô cùng lợi hại. Tản Viên Sơn Thánh – Nguyễn Tuấn biết chống trả cũng không lại, lại gây ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt, sò hến đánh nhau ngư ông đắc lợi. Ngoại xâm chính là ngư ông, chờ thời cơ là hốt sạch, xóa sổ nước Văn Lang. Nguyễn Tuấn thấy rõ nguy cơ mất nước xảy ra khi anh em tương tàn nồi da nấu thịt, chi bằng khuyên Vua Hùng nhường ngôi Quốc Vương cho Thục Phán.
Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, Niên Đại Hùng Vương kết thúc, chuyển sang niên hiệu An Dương Vương. Thời đại Văn Lang kết thúc chuyển sang thời đại Âu Lạc, cũng chính là lúc con cháu Tiên Rồng rơi vào thời mạt pháp, mạt vận. Mặt Trời Chính Nghĩa không còn, màn đêm bao phủ Con Cháu Tiên Rồng. Sau cơn hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Văn Lang, thiêu rụi những gì còn sót lại kể cả gia phả Hùng Vương- Ý Trời. Các Vương Quan, tướng lĩnh đời cuối Niên Đại Hùng Vương đau xót cho Niên Đại Hùng Vương, kéo dài hàng nghìn năm. Ai được nghe kể gì thời thờ nấy nên hết sức lộn xộn. Mà thôi, thà thờ lộn xộn, câu chuyện lịch sử lộn xộn, còn hơn là đánh mất hẳn truyền thống dựng nước, giữ nước của Ông Cha.
Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, lúc ấy Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc từ lâu, trở thành mảnh đất chiến tranh, tranh giành của nhiều thế lực, như Thục – Tần – Ngô – Sở – Triệu – Hàn – Ngụy – Tấn. Đất Bắc nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc, chiến tranh tranh giành thuộc địa càng lúc càng dữ dội. Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương lập nước ÂU LẠC- Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ đã rơi vào tay quân giặc Tấn, Quân giặc Sở cắt đôi Giao Chỉ thành thế Đông Tây, Cửu Chân, Nam Hải, Đông Hải, Hợp Phố. Cộng thêm nửa phần đất Giao Chỉ phía Đông do quân giặc Sở đô hộ chiếm đóng: Uất Lâm – Thương Ngô – Nhật Tây – Nhật Nam. Cộng thêm nửa phần đất Giao Chỉ phía Tây do quân giặc Tấn đô hộ chiếm giữ. Dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm, Bách Tộc Văn Lang Âu Việt – Lạc Việt – Mân Việt – Dương Việt – Điền Việt – Hải Việt – Sơn Việt – Trung Việt – Hoa Việt – Đông Việt – Tây Việt v.v… gọi chung là Bách Việt Văn Lang, ở vào giai đoạn Hạ Hùng Vương từ đời Hùng Vương thứ 11 đến thứ 18. Dưới ách thống trị quân Tấn, Quân Sở, Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ. Chúng ra sức vơ vét của cải phục vụ cho chiến tranh. Đất nước Xích Quỷ Bắc phần Văn Lang vô cùng trù phú, là miếng mồi béo bở tranh giành của nhiều thế lực. Vì thế giặc Tấn bị quân Triệu, quân Hàn, quân Ngụy, kéo đến tấn công. Quân Tấn bị tiêu diệt. Giặc Hàn, giặc Triệu, giặc Ngụy chia nhau chiếm giữ. Bách Việt Văn Lang lại rơi vào cảnh khốn khổ khác: Hổ chết thì Sói vào, Ma tiêu thì Quỷ đến. Chúng không những vơ vét về của cải vật chất mà còn vơ vét con người phục vụ cho chiến tranh, còn nỗi khổ nào hơn nữa?
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ, giành lấy giang san của kẻ khác, nhất là miếng mồi béo bở như nước Xích Quỷ, liền đem quân tấn công quân Ngụy, quân Triệu, quân Hàn, Quân Sở. Đất Bắc Nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc, nhà Tần lên thay thế vào năm 257 trước Công Nguyên.
Năm 218 trước Công Nguyên, Vua Tần sai tướng Đồ Thư thống lãnh 50 vạn quân đánh tiến vào Trung Văn Lang ồ ạt thế mạnh như chẻ tre. Quân Tần giáp trụ đầy mình, nón đồng phủ kín, nào kị binh, bộ binh, chiến xa, trang bị ná phóng đá, xe chống tên vô cùng lợi hại. Chia ra làm hai đạo quân, một đạo quân tiến đánh Triệu Đà đang ở Nam Hải. Đạo quân chủ lực do Thống Soái Đồ Thư trực tiếp chỉ huy thống lãnh 30 vạn quân tiến đánh Nam Văn Lang.
Trước thế giặc hung hãn, An Dương Vương ra lệnh cho Dương Sàn cùng Tây Lương, bình tĩnh vừa đánh vừa chủ động vừa rút lui. Dân chúng ở mọi Châu, mọi vùng miền tạm thời di cư sâu vào Nam Văn Lang, theo kế sách “Vườn không nhà trống”
Giặc Tần đi đến đâu cũng không thấy dân, nên không cướp bóc được gì. Chờ cho quân Tần chia ra nhiều nhánh tiến sâu vào các châu, quận địa phận Nam Văn Lang. Thống soái Dương Sàn cùng phó thống soái Tây Lương, cho quân Văn Lang mai phục những nơi địa hình hiểm trở nơi sông, suối, đèo, dốc, bất ngờ tấn công quân Tần. Đại quân di chuyển nhanh chóng nhất là đội quân cung nỏ, phóng lao tinh nhuệ, cũng như áp dụng chiến thuật bắn tỉa, dồn quân Tần vào nơi phục kích, dùng nỏ tên hạ gục chúng.
Với chiến thuật: trên kéo dài trận chiến, dưới dồn ép quân Tần vào chỗ hiểm nghèo khiến quân Tần chết vô số kể, lại không cướp bóc được gì của dân nên đứng trước nguy cơ thiếu lương thực. Quân Tần không làm chi được, tiến đánh không xong mà lùi cũng bị kẹt, tình thế vô cùng bất lợi, càng kéo dài càng nguy, hơn nữa quân dân Bách Việt tinh thần yêu nước quật khởi rất cao, có thể nói là không sao quân Tần đánh bại được.
Năm 211 trước Công Nguyên, Tướng Đồ Thư quyết định rút lui về Việt Trung Nguyên không tiến đánh Nam Văn Lang nữa. Quân Tần rút lui vừa tới nơi hiểm trở, An Dương Vương trực tiếp thống lãnh đại quân xạ thủ đuổi theo truy kích, quân Tần quay lại chống trả. Quân Âu Lạc nhiều ngả kéo tới sáp chiến. Quân Tần bị động, lại thêm thiếu lương thực nhiều ngày đã mệt mỏi, tinh thần chiến đấu không còn cao. Quân Âu Lạc thời khí thế dâng trào, những mũi tên thép bắn ra từ quân Âu Lạc xuyên thủng giáp thủng nón đồng, quân Tần chết như rạ. Tướng giặc Đồ Thư chỉ huy la hét, An Dương Vương liền bắn một phát tên thép xé gió vút nhanh cắm thẳng vào cổ tướng giặc Đồ Thư. Thống soái Đồ Thư tướng giặc ngã nhào, An Dương Vương nhanh như con mèo phi ngựa lao tới vớt cho một đao, tướng Đồ Thư đầu lìa khỏi cổ.
Đại quân binh mã nhà Tần như rắn mất đầu khiếp kinh hốt hoảng tháo chạy, dẫm đạp lên nhau lớp chết lớp bị thương. Vô số những quân binh sống sót chạy về Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang hú hồn hú vía.
Sau lễ ăn mừng đánh đuổi quân Tần, An Dương Vương chọn đất Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa thuộc tỉnh Ninh Bình nước Việt Nam) lập kinh đô. Phòng thủ trước âm mưu xâm lược từ phương Bắc. ( xem Long Hoa Lược Truyện Sự Tích Cổ Loa Thành sẽ rõ)
Nhà Tần gồm thâu Thiên Hạ, tranh giành đất đai, quân Hàn – quân Ngụy đầu hàng. Quân Triệu vì ỷ có 40 vạn quân nên không chịu đầu hàng. Thế là cuộc chiến xảy ra trên đất Tây Giao Chỉ vô cùng khốc liệt. Gia Triệu tử nạn, 20 vạn quân chôn vùi tại trận. Con của Gia Triệu là Gia Lại dẫn 20 vạn quân còn lại chạy trốn sâu vào đất Văn Lang, xưng là Đại Vương. Quân Tần tiếp tục truy sát, Gia Lại Đại Vương dẫn 20 vạn quân vượt qua sông Tây Giang, Quân Tần không truy đuổi nữa. Về sau Gia Lại xưng hiệu là Triệu Việt Vương.
Quân Triệu (giặc Triệu) vượt qua sông Tây Giang chiếm lĩnh nhiều Châu, nhiều Quận, nhiều Huyện của Trung phần đất Văn Lang như: Hồng Châu, Hồng Thượng Châu, Đông Châu, Thái Châu, Bộc Châu, Cưu Châu, Tiên Châu, Lô Châu, Du Châu, Thạch Châu, Môn Châu, Điền Châu. Tình hình Bách Việt Văn Lang lúc bây giờ rối loạn, liên tiếp xảy ra sự lộn xộn, rối ren không có trật tự nào cả. Bắc Văn Lang thì đã rơi vào tay giặc, còn Trung Văn Lang tình hình như đã nói trên, trộm cướp khắp nơi. Tình hình vô cùng thuận lợi cho giặc Triệu chiếm lĩnh đất đai hàng phục dân chúng một cách dễ dàng. Không bao lâu thế lực của giặc Triệu lên tới 40 vạn, tiếp tục chiếm lĩnh các Châu, Quận, Huyện về hướng Đông Trung Văn Lang như: Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Thượng Lô Châu, Lô Lô Châu.
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ chia Thiên Hạ ra làm 36 Quận, Quận lớn hơn Huyện. Quận ở Tần Bằng Châu Văn Lang đời Tần thịnh về thuyết Ngũ Hành nên chia Thiên Hạ cũng theo năm phương vị Ngũ Hành: Đại Nam – Đại Bắc – Đại Đông – Đại Tây, nhưng chỉ có Đại Nam là quan trọng hơn cả. Chiếm được Đại Nam là coi như chiếm được Thiên Hạ nên Tần Thủy Hoàng quét sạch: Quân Hàn – Quân Triệu – Quân Ngụy – Quân Sở chiếm lĩnh Đại Nam trước, Đại Nam chính là Nước Xích Quỷ (tức miền Bắc Văn Lang). Trước sự cai trị độc ác, hà khắc, ác nghiệt của chế độ chính sách nhà Tần, dân chúng Bách Việt Văn Lang Xích Quỷ bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng mạnh. Lúc này nền Quốc Đạo truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn phai mờ từ lâu, Bách Việt rơi vào cảnh tối tăm. Đất Bắc sáng sủa hơn vì có thuyết Lão giáo, Khổng giáo. Ngoại xâm xâm lược nước Văn Lang không những chỉ có quân sự, chính trị, mà còn có cả Văn Hóa. Xâm lược Văn Hóa còn độc hại hơn xâm lược quân sự, chính trị. Bách Việt Trung phần, Bắc phần Văn Lang đã bị Văn Hóa ngoại xâm thống trị, ngự trị ăn sâu vào tâm hồn, đồng hóa Dân Tộc Văn Lang thành Dân Tộc đất Bắc.
Cho đến năm 184 trước Công Nguyên, Triệu Đại Vương đem quân đánh An Dương Vương nhưng đánh không lại, tiêu 20 vạn quân và mấy lần liên tiếp thất bại. Triệu Đại Vương tức là Triệu Đà khiếp vía biết không thể nào thắng nổi An Dương Vương bằng nghĩ ra một kế sách âm mưu lớn. Triệu Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với An Dương Vương rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với nàng Mỵ Châu, chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận “liên hoàn cung” và vũ khí luyện thép bí mật của ÂU LẠC. Mũi tên thép bắn thủng áo giáp, độ trúng chính xác rất cao làm khiếp sợ quân xâm lược. Với mưu đồ cầu hôn giảng hòa quỷ quyệt giả tạo này, Triệu Đà đã đạt được mục đích. Trọng Thủy học được bí quyết luyện thép nhờ sự giúp đỡ của Mỵ Châu. Triệu Đà liền chế tạo ra tên thép, kiếm thép, áo giáp thép, liền tiến quân đánh thành Cổ Loa. An Dương Vương luôn ỷ y thế mạnh và không nghe theo lời khuyên của Cao Lỗ nên cuối cùng bị Triệu Đà đánh bất ngờ và tiêu diệt. Thế là nước Âu Lạc không còn vào năm 179 trước Công Nguyên được 79 năm.
Tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG xong, Triệu Đại Vương xưng là Triệu Việt Vương. Con cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh đô hộ ngoại bang dưới sự cai trị của quân Triệu. Con cháu Tiên Rồng không những không tùng phục mà còn nổi lên chống trả khắp nơi. Triệu Việt Vương liền ra sức dẹp loạn nhưng dẹp chỗ này là chỗ khác lại mọc lên. Y lấy làm lạ, đâu cũng là nước Văn Lang nhưng Dân Nam Văn Lang vô cùng khác lạ, không giống Trung Văn Lang và Bắc Văn Lang. Y ra sức dụ dỗ cách nào Dân cũng không nghe. Y thuyết giảng Khổng, Lão dân cũng không màng và y đã nghi ngờ đất đai Nam Văn Lang có vấn đề.
Nói về Triệu Đại Vương- Triệu Đà có đủ sức mạnh đánh chiếm nước Âu Lạc, có bốn nguyên do thuận lợi tạo lên thắng lợi đó:
1. Là do sự cai trị độc ác của chế độ nhà Tần khiến dân chúng Bách Việt Văn Lang nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang vượt qua sông Tây Giang bỏ trốn di cư vào Nam. Nhờ vào chính sách lừa bịp giỏi, dân chúng tin theo làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng thêm mạnh.
2. Là năm 209 trước Công Nguyên, công tử Hồ Hợi lên kế vị Tần Thủy Hoàng- nhị thế Hoàng Đế, thì Triệu Cao lên chức như diều gặp gió. Từ lang trung lệnh không bao lâu lên nắm quyền Thừa Tướng. Quyền lực thế lực rất mạnh, khôi phục lại thế lực nước Triệu ở bên kia Hoàng Hà. Vì thế Triệu Đại Vương Triệu Đà thoát khỏi áp lực truy sát quân Tần, lại được nước Triệu bên kia sông Hoàng Hà hậu thuẫn ủng hộ giúp sức. Triệu Đại Vương trên đà hùng mạnh, tiến quân đánh An Dương Vương nhưng Triệu Đà vẫn đánh không lại vì AN DƯƠNG VƯƠNG có liên hoàn cung, mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, nón mũ giáp, độ trúng chính xác rất cao. Mấy lần thất bại làm cho Triệu Đà khiếp sợ.
3. Là Triệu Đà lập ra một âm mưu lớn, Triệu Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với AN DƯƠNG VƯƠNG rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung và cách luyện thép bí mật, chế tạo lên thép, kiếm thép, đao thép, mũi lao thép của ÂU LẠC. Với mưu mô quỷ quyệt này, Triệu Đà đã đạt được 2 mục đích:
– Chia rẽ nội bộ làm cho mâu thuẫn với nhau dẫn đến mất đoàn kết, mất sức mạnh thống nhất.
– Khám phá ra bí mật cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung, cách luyện thép, cách chế tạo ra tên thép, kiếm thép, đao thép, lao thép, chúng còn chế tạo ra cả áo giáp thép.
4. Là chúng thấy thời cơ đã chín muồi liền tiến quân đánh chiếm thành Cổ Loa, tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG vào năm 179 trước Công Nguyên. Diệt xong An Dương Vương, y tưởng rằng hàng phục Dân Âu Lạc một cách dễ dàng, nào hay đâu y không hàng phục được mà Dân Âu Lạc càng ngày càng nổi lên chống trả y dữ dội. Y liền cho người về nước Triệu thỉnh cầu cao kiến. Lúc ấy nước Triệu, Trương Nhĩ đã lên làm Thừa Tướng. Trương Nhĩ có quen với một người nước Tần là Tấn Hầu Gia, là người chán ngán cuộc thế nên ở ẩn, rất giỏi về Thiên Văn Địa Lý, dịch số, toán số. Nhưng vì nể Trương Nhĩ là bậc nhân hiền nên vào Nam giúp cho Triệu Việt Vương (tức là Triệu Đà) xem qua địa cuộc Nam Văn lang. Tấn Hầu Gia vừa đến đất ÂU LẠC Nam Văn Lang thời cảm thấy bất an ớn lạnh. Triệu Việt Vương dẫn Tấn Công Hầu xem qua địa cuộc Nam Văn Lang. Công Hầu thấy đất đai núi sông kỳ bí, khí thiêng sông núi tỏa lên kỳ lạ. Địa cuộc Hổ phục, Rồng Chầu, Hổ ngồi Rồng ẩn, thời thốt lên: Quả là Địa Linh Đất Thánh. Không phải Dân Nam thì xưng Vương ở đất này nhất định sanh đại họa. Công Hầu nói: Đất Nam kỳ bí này chỉ có người Nam cai trị người Nam. Việt Vương không nên đóng đô ở đây. Đóng đô trên đất Giao Chỉ để xưng Vương. Còn nơi đây, chỉ định đặc sứ tài giỏi để cai trị, bóc lột vơ vét, không cho dân chúng có đủ sức lực để chống trả. Triệu Việt Vương làm theo, phong cho Triệu Lữ Gia làm thừa tướng biến Nước ÂU LẠC thành Nam Quận. Triệu Lữ Gia là con cáo già thâm độc, dùng kế sách người Nam Việt cai trị người Nam Việt làm cho cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm.
Cho đến năm 111 trước công nguyên, nhà Hán tiêu diệt nhà Triệu, cướp nước Nam Việt lần nữa. Thừa Tướng Triệu Lữ Gia bỏ Âu Lạc chạy sang Phiên Ngung, cấu kết với các Bộ Tộc Thổ Hào Văn Lang chống lại nhà Hán và cuộc giao tranh giữa nhà Hán với Thổ Hào Văn Lang tại Long Động Hùng Sơn. Triệu Lữ Gia tử nạn. ÂU LẠC Nam Văn Lang lại rơi vào tình cảnh bi đát hết sức đau khổ. Con cháu Tiên Rồng thật đáng thương. Nhìn cảnh vơ vét bóc lột dã man của quân Hán. Nhìn cảnh Trâu cày Ngựa cỡi tù đày tra tấn, đói rét, bệnh tật, sống chết nằm trong tay giặc. Thi Sách nhìn quân thù hai con mắt đổ lửa.
Nhìn cảnh kéo cày rơi nước mắt
Đòn roi vun vút tét thịt da
Tô Định hỡi thằng hung bạo ác
Sách đây sùng sục máu Ông Cha.
Thi Sách là cháu Quan hầu tướng về quê ở ẩn, không theo phò An Dương Vương. Sách nhìn cảnh tàn ác của quân xâm lược nung nấu ý chí, ngày đêm góp nhặt viết sử Ông Cha, kêu gọi con cháu Tiên Rồng khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.
Nước Non, Non Nước cảnh đông về
Bão giặc lan tràn khắp xóm quê
Gái trai già trẻ đời nô lệ
Giặc vơ giặc vét thảm não nề.
Giặc Hán không những vơ vét sức người của cải, tài nguyên đất nước mà còn ra sức ếm yểm hầu tiêu diệt Linh Địa khắp nơi.
Gươm của chúng đã đâm vào huyệt mẹ
Thời còn chi người Mẹ Nước Nước Non
Hỡi Dân Nam, người Dân Đại Việt
Hãy vùng lên quét sạch ngoại bang.
Thi Sách ngày đêm góp nhặt những gì còn sót lại, truyền thống quí báu của Ông Cha, để cho Con Cháu Tiên Rồng có hướng đi theo bước Cha Ông. Tô Định được mật báo liền bày kế giết chết Thi Sách, đốt sạch những gì Thi Sách viết. Mùa xuân năm 40 sau Công Nguyên, chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa, trả thù chồng, thù nước. Thái Thú Tô Định bị hai bà Trưng đánh tơi bời.
Nghe tiếng sấm đất Trời rung chuyển
Tiếng Voi rền dậy núi dậy non
Tô Định hoảng vía hồn kinh
Trống – Chiêng Đao Kiếm rung rinh Đất Trời
Nhìn quân Hán ngã nhào tan xác
Tiếng hò reo cùng khắp bao vây
Tô Định cạo tóc cạo râu
Tìm đường chốn chạy xiết bao hãi hùng
Cờ Đại Nghĩa phực phừng phất phới
Giống Rồng Tiên cưỡi gió tung bay
Tô Định rời rã chân tay
Kể gì vinh nhục miễn sao thoát cùng
Đất Trời Nam bừng bừng tỏa sáng
Phá xích xiềng đời sống tự do
Con đường no ấm, ấm no
Chủ Quyền Độc Lập giữ cho vững bền
Gương Bà Trưng anh hùng liệt nữ
Trang sử vàng, sáng mãi muôn năm
Hỡi muôn Dân hỡi Cháu Con
Chủ Quyền Độc Lập vàng son nước nhà.
Từ thuở Cha Ông đến nhân gian
Long Hoa dãy núi nở Hoa vàng
ÂU CƠ một bọc trăm con trẻ
Ra đời chung sống ở thế gian
Đại Đồng một Cội từ muôn thuở
Lưu truyền nòi giống, nở cháu con
Rồng Tiên Cội Gốc niềm linh hiển
Đồng Bào đồng thể Cội Vàng Son.
Dù cho con cháu Việt Nam có lưu lạc đến nơi đâu, cũng mãi mang hai chữ Đồng Bào trong dòng máu Tiên Rồng Đại Việt.
Nước đã ra đi, Nước về Nguồn
Một Bào một Bọc Cội tình thương
Sử ta, ta học, ta ca hát
Một Cội trăm nhành nở Hoa Hương
Truyền thống Cha Ông nền Chính Nghĩa
Chói rạng Trời Nam sử Hùng Vương
Lịch sử vàng son còn vang mãi
Ngấm vào Con Cháu giống Rồng Tiên.
Lịch sử Ông Cha hào hùng, thấm đượm Đạo Đức Nhân Văn cao cả (xin xem Long Hoa Mật Tạng, Văn Lang Chiến Sự 1, 2, 3 sẽ rõ). Nhưng vì phần lớn là do thất truyền, một phần do ngoại xâm đô hộ, phá sạch, đốt sạch, quét sạch, tiêu diệt sạch để ngoại xâm dễ cai trị, dễ bề khống chế Tinh Thần Con Cháu Rồng Tiên.
Lịch Sử Cha Ông lịch sử vàng
Hào hùng diệt quỷ dựng Nước Non
Lãnh Nam trận chiến rền Trời Đất
Quét sạch Yêu Tinh chí ngút ngàn
Ngày đêm khai phá miền đất mới
Bừng bực mọc lên nước Văn Lang
Sử ta, ta học còn không hết
Còn đâu đèo gánh sử ngoại bang.
Lịch sử Cha Ông nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm, nghe vó Ngựa, chân Voi vang rền tiến về đất Lãnh Nam dựng cơ nghiệp.
Long Vân Đại Hội Đạo ngút Trời
Âu – Lạc Hùng Thiêng dậy biển khơi
Vó Ngựa chân Voi rền dậy đất
Lãnh Nam dựng nghiệp rạng Vua Tôi
Văn Lang hùng mạnh rền phương Bắc
Năm nghìn năm trước chẳng xa xôi
Nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm
Ấm Nguồn ấm Cội, ấm lòng ôi.

NIÊN ĐẠI HÙNG VƯƠNG 41 ĐỜI HÙNG VƯƠNG
THỜI THƯỢNG HÙNG VƯƠNG 23 ĐỜI

1. ĐỜI THỨ NHẤT. HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ.
Sinh ngày 20 tháng 02 năm Giáp Thìn. Tức là năm 2989 trước Công Nguyên. Theo niên lịch Kinh Nam.
Khi còn là Thái Tử
16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý cứu nhân độ thế.
22 tuổi Quốc Tổ chuyển đại pháp luân khai hội Long Vân tại vườn Cấm Nước Xích Quỷ vào ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu.
25 tuổi Quốc Tổ dẩn quân Âu Lạc tiến về đất Lãnh Nam vào mùng 1 tháng 5 năm Mậu Thìn. Khai dựng lên nước Văn Lang, cũng như Bách Việt Văn Lang.
30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương vào ngày 2 tháng 9 năm Quí Dậu năm 2959 trước Công Nguyên cũng như công bố nền Quốc Đạo Văn Hóa Tiên Rồng ra đời.
Năm 41 tuổi Quốc Mẫu Phụng Cơ sanh Hùng Quí Lân.
109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho con cả là Hùng Quí Lân vào năm 2880 tức vào năm Nhâm Thìn trước Công Nguyên
79 năm Quốc Tổ ở ngôi dựng nước.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Giáo Tổ Quốc Đạo.
112 tuổi Quốc Tổ về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi năm 2877 trước Công Nguyên.

2. ĐỜI THỨ NHÌ. LÂN LANG.
HÙNG QUÍ LÂN: Lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ, thay Cha là Hùng Lang Quốc Tổ đời thứ 2.
2.880 đến 2.796 trước Công Nguyên
68 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
84 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 162 tuổi.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. 152 tuổi nhường ngôi lập cháu có Đức có Tài lên thay thế đời thứ 3.

3. ĐỜI THỨ BA. THÁI LANG.
HÙNG THÁI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội là Hùng Quí Lân. HÙNG VƯƠNG đời thứ 3.
2796 đến 2726 trước Công Nguyên
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
20 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 153 tuổi.

4. ĐỜI THỨ TƯ. THUẬN LANG.
HÙNG THUẬN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông nội, Hùng Thái Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 4.
2.726 đến 2.644 trước Công Nguyên
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
82 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 154 tuổi.

5. ĐỜI THỨ NĂM. MẬT LANG.
HÙNG MẬT LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội Hùng Thuận Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 5.
2644 đến 2572 trước Công Nguyên
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 146 tuổi.

6. ĐỜI THỨ SÁU. CAO LANG.
HÙNG CAO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Mật Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 6.
2572 đến 2498 trước Công Nguyên
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

7. ĐỜI THỨ BẢY. QUYỀN LANG.
HÙNG QUYỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Cao Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 7.
2498 đến 2417 trước Công Nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
81 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 151 tuổi.

8. ĐỜI THỨ TÁM. LỘC LANG.
HÙNG LỘC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quyền Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 8.
2417 đến 2339 trước Công Nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
78 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 143 tuổi.

9. ĐỜI THỨ CHÍN. THỊNH LANG.
HÙNG THỊNH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Lộc Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 9.
2339 đến 2265 trước Công Nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo.Thọ 141 tuổi.

10. ĐỜI THỨ MƯỜI. THANH LANG.
HÙNG THANH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thịnh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 10.
2265 đến 2188 trước Công Nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
77 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.

11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. TÂM LANG.
HÙNG TÂM LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thanh Lang.
2188 đến 2113 trước Công Nguyên.
63 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
75 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 145 tuổi.

12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. QUẾ LANG.
HÙNG QUẾ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tâm Lang.
2113 đến 2043 trước Công Nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 137 tuổi.

13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. ÁC LANG.
HÙNG ÁC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quế Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 13.
2043 đến 2001 trước Công Nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 106 tuổi.

14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. LINH LANG (Con Út).
HÙNG LINH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay Cha là Hùng Ác Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 14.
2001 đến 1927 trước Công Nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 138 tuổi.

15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CHÂU LANG.
HÙNG CHÂU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Linh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 15.
1927 đến 1857 trước Công Nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. XÍCH LANG.
HÙNG XÍCH LANG: lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Châu Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 16.
1857 đến 1778 trước Công Nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
79 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.

17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. QUÂN LANG.
HÙNG QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Xích Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 17.
1778 đến 1705 trước Công Nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
73 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.

18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. THỤC LANG.
HÙNG THỤC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 18.
1705 đến 1634 trước Công Nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
71 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

19. ĐỜI THỨ MƯỜI CHÍN. YÊN LANG.
HÙNG YÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thục Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 19.
1634 đến 1562 trước Công Nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

20. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI. VĨ LANG.
HÙNG VĨ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Yên Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 20.
1562 đến 1486 trước Công Nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
76 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

21. ĐỜI THỨ HAI MỐT. TÂN LANG.
HÙNG TÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Vĩ Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 21.
1486 đến 1417 trước Công Nguyên.
29 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
69 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.

22. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI HAI. CHIẾN LANG.
HÙNG CHIẾN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 22.
1417 đến 1342 trước Công Nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
75 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

23. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI BA. DỊCH LANG.
HÙNG DỊCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Chiến Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 23.
1342 đến 1276 trước Công Nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
66 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 128 tuổi.
Niên Đại Thượng Hùng Vương đến đây là kết thúc. Chuyển sang Niên Đại Hạ Hùng Vương. Hùng Dịch Lang không có con trai nên không có cháu trai để lập Quốc Vương kế vị. Hùng Cừ Lang là em của Hùng Dịch Lang. Cháu thứ 3 của Hùng Cừ là Vân Lang. Cha của Vân Lang là Chấp Lang. Hùng Dịch Lang, Hùng Vương đời thứ 23 lập Vân Lang. Cháu của em mình là Hùng Cừ lên kế vị ngôi Quốc Vương. Đời thứ 24, cũng là đời thứ nhất thời Hạ Hùng Vương.

THỜI HẠ HÙNG VƯƠNG 18 ĐỜI

1. ĐỜI THỨ NHẤT. VÂN LANG.
HÙNG VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Bác Nội. Hùng Dịch Lang. HÙNG QUỐC VƯƠNG thứ 1.
1276 đến 1211 trước Công Nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
65 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 126 tuổi.

2. ĐỜI THỨ HAI. HUÂN LANG.
HUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Vân Lang, pháp hiệu HÙNG YÊN VƯƠNG đời thứ 2.
1211 đến 1141 trước Công Nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.

3. ĐỜI THỨ BA. ĐIỂN LANG.
ĐIỂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Yên Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tiên Vương. HÙNG TIÊN VƯƠNG đời thứ 3.
1141 đến 1077 trước Công Nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
64 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 125 tuổi.

4. ĐỜI THỨ BỐN. BẢO LANG.
BẢO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Tiên Vương. Lấy pháp hiệu HÙNG DIỆP VƯƠNG đời thứ 4.
1077 đến 1020 trước Công Nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
57 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

5. ĐỜI THỨ NĂM. VIÊN LANG.
VIÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Diệp Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Hy Vương. HÙNG HY VƯƠNG đời thứ 5.
1020 đến 961 trước Công Nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
59 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 120 tuổi.

6. ĐỜI THỨ SÁU. PHÁP HẢI LANG.
PHÁP HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Hy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Huy Vương. HÙNG HUY VƯƠNG đời thứ 6.
961 đến 893 trước Công Nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
68 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.

7. ĐỜI THỨ BẢY. LANG LIÊU LANG.
LANG LIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Huy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chiêu Vương. HÙNG CHIÊU VƯƠNG đời thứ 7.
893 đến 832 trước Công Nguyên.
48 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 114 tuổi.

8. ĐỜI THỨ TÁM. THỪA VÂN LANG.
THỪA VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chiêu Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Vi Vương. HÙNG VI VƯƠNG đời thứ 8.
832 đến 771 trước Công Nguyên.
51 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 116 tuổi.

9. ĐỜI THỨ CHÍN. QUÂN LANG.
QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vi Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Đinh Vương. HÙNG ĐINH VƯƠNG đời thứ 9.
771 đến 726 trước Công Nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
1 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 105 tuổi.
Nền Quốc Đạo duy trì đến đây là chấm dứt. Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại chút ít cũng biến mất từ đây. Đời sống xã hội Văn Lang từ đây chạy theo trào lưu, phong kiến Chủ Nghĩa Độc Quyền không khác gì Triều Đại Đất Bắc. Kéo dài 425 năm từ đời Hùng Vương 11 đến đời Hùng Vương 18.

10. ĐỜI THỨ MƯỜI. HÙNG HẢI LANG.
HÙNG HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Đinh Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Úy Vương. HÙNG ÚY VƯƠNG đời thứ 10.
726 đến 683 trước Công Nguyên.
67 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
43 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 113 tuổi.

11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. HƯNG ĐỨC LANG.
HƯNG ĐỨC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Úy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chinh Vương. HÙNG CHINH VƯƠNG đời thứ 11.
683 đến 641 trước Công Nguyên.
65 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. ĐỨC HIỀN LANG.
ĐỨC HIỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chinh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Vũ Vương. HÙNG VŨ VƯƠNG đời thứ 12.
641 đến 569 trước Công Nguyên.
45 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 119 tuổi.

13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. TUÂN LANG.
TUÂN LANG: Là con thứ 7 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vũ Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Việt Vương. HÙNG VIỆT VƯƠNG đời thứ 13.
569 đến 506 trước Công Nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
63 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 118 tuổi.

14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. CHÂN NHÂN LANG.
CHÂN NHÂN LANG: Là con thứ 6 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Việt Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Ánh Vương. HÙNG ÁNH VƯƠNG đời thứ 14.
506 đến 456 trước Công Nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
50 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.

15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CẢNH CHIÊU LANG.
CẢNH CHIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Ánh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Triều Vương. HÙNG TRIỀU VƯƠNG đời thứ 15.
456 đến 396 trước Công Nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
60 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 115 tuổi.

16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. ĐỨC QUÂN LANG.
ĐỨC QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Triều Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tạo Vương. HÙNG TẠO VƯƠNG đời thứ 16.
396 đến 351 trước Công Nguyên.
57 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 104 tuổi.

17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. BẢO QUANG LANG.
BẢO QUANG LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Tạo Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Nghị Vương. HÙNG NGHỊ VƯƠNG đời thứ 17.
351 đến 306 trước Công Nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 102 tuổi.

18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. HUỆ LANG.
HUỆ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Nghị Vương. Lấy pháp hiệu là Hùng Duệ Vương. HÙNG DUỆ VƯƠNG đời thứ 18.
306 đến 258 trước Công Nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
48 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 102 tuổi.

! CHÚ Ý VÌ SAO HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM VIỆC THỜ CÚNG QUỐC TỔ CŨNG NHƯ VIỆC GHI CHÉP NIÊN ĐẠI CÁC VUA HÙNG LẠI LỘN XỘN NHƯ VẬY?

Trải qua không biết bao nhiêu là thế sự thăng trầm thịnh suy, tưởng chừng như Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng mất hẳn vậy mà vẫn còn cho tới ngày nay đâm chồi, nẩy lộc đơm hoa kết trái. mùa Xuân đã trở lại với non sông Tổ Quốc.
Gần hai nghìn năm Tổ Quốc luôn luôn bị thế lực ngoại xâm thống trị và chúng bóp méo đi lịch sử Tiên Rồng, làm cho con cháu Tiên Rồng quên đi Nguồn Gốc chính mình, Đồng Bào chia rẽ là đi theo chiều hướng có lợi cho ngoại xâm, để chúng dễ bề cai trị.
Với nhiều giả thuyết chúng đặt ra hầu làm chao đảo tinh thần dân tộc con cháu Tiên Rồng, các thế hệ sau khi tiếp xúc với luận điệu giả thuyết của chúng đã đặt ra khó mà phân biệt đúng sai, làm cho con cháu Tiên Rồng con dân Đại Việt tự đánh giá sai về Cội Nguồn của chính mình, lạc mất hướng đi và đó là lúc thuận lợi để cho thế lực ngoại xâm:
1- Truyền bá triết học, các thuyết Tôn Giáo, Đạo Giáo của giặc đã biến cải thành chính trị mê hoặc dân ta, hầu thống trị con cháu Tiên Rồng Đại Việt ta và đẩy truyền thống nền Quốc Đạo đi vào quên lãng. Do sự mất mát sai lệch trong Văn Hóa Cội Nguồn. Các thế lực ngoại bang, kẻ xấu đã và đang lợi dụng cơ hội sai lệch đó.
2- Tuyên truyền đả kích chống phá vì họ hiểu rằng: tư tưởng con cháu Tiên Rồng lưng chừng gió chiều nào ngã chiều nấy, đây là lúc thích hợp để chúng truyền bá Tôn Giáo, Đạo Giáo mang xu hướng có lợi cho chính trị xâm nhập vào nước ta, lôi kéo tinh thần con cháu Tiên Rồng sa ngã theo ý tưởng của họ, có lợi cho họ một khi dân tộc ta đã theo chủ thuyết của họ.
Họ lại càng bóp méo sự thật, bài bác về truyền thống Cội Nguồn, lịch sử Cội Nguồn Tiên Rồng của chúng ta, chúng đặt ra nhiều câu hỏi hiểm hóc để cho các tầng lớp trí thức của ta không thể nào trả lời được, để rồi mất niềm tin đối với Cội Nguồn. Họ nói lịch sử Con Rồng Cháu Tiên là không có thật, nếu có thật thì Dân Tộc Việt Nam có Nguồn Gốc loạn luân anh em ruột thịt lấy lộn nhau. Một dân tộc văn minh không có chuyện đó, nếu có chỉ có thời Nguyên Thủy Hồng Hoang mà thôi.
Họ nói lịch sử Tiên Rồng chỉ là lịch sử truyền thuyết, nếu có thật thì Dân Tộc Việt Nam có Nguồn Gốc loạn luân VÌ SAO? Vì nếu nói LẠC LONG QUÂN lấy BÀ ÂU CƠ sanh ra 100 người con 50 nam 50 nữ, sau đó anh em lấy lộn nhau thành dân tộc Văn Lang nay là dân tộc Đại Việt thì đó là dân tộc lạc hậu, man di mà thôi.
Trong khi đó Văn Hóa Đạo Đức của phương Bắc đã gần năm nghìn năm Văn Hiến, đều theo Đạo Nhân Luân Hiếu Nghĩa cha con anh em không được lấy nhau, đó mới là một Dân Tộc văn minh, nếu lấy nhau họ cho đó là loài cầm thú. Nếu muốn lấy nhau ít nhất cũng phải qua ba bốn đời.
Chính vì không trả lời được câu hỏi đó nên dân ta âm thầm sửa chữa lại cho hợp tình hợp lý, mới nói rằng: LẠC LONG QUÂN lấy BÀ ÂU CƠ sanh ra 100 người con trai không có con gái và người con cả là QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG. Năm mươi người con theo cha xuống biển, thành dân tộc Kinh, năm mươi người con theo mẹ lên núi thành dân tộc Thượng.
Sự đặt ra thêm bớt trong Văn Hóa Cội Nguồn như thế, không những không giải quyết được gì mà còn gây ra thêm sự khó hiểu, không hiểu 100 người con của LẠC LONG QUÂN lấy vợ dân tộc nào? để hình thành lên con cháu Văn Lang nay là Việt Nam thành ra hai dân tộc Kinh, Thượng một nhà. Sự thêm bớt không cơ bản ấy làm cho người đọc trở nên nghi ngờ khúc mắc và càng xa rời thực tế, hễ có 100 người con thì phải có 100 cái tên.
Những người thờ cúng sau này nghe truyện kể nhầm lẫn tên tuổi con cháu thời Thượng HÙNG VƯƠNG cho đó là tên tuổi con cái LẠC LONG QUÂN (xem Kinh Long Hoa Mật Tạng sẽ rõ). Thật ra tên tuổi trong sự thờ cúng chỉ là con cháu của các thời Thượng HÙNG VƯƠNG, từ thời HÙNG VƯƠNG thứ 1 đến thời HÙNG VƯƠNG thứ 23 kéo dài 1683 năm, thời Hạ HÙNG VƯƠNG 18 ĐỜI kéo dài 1018 năm. Niên Đại HÙNG VƯƠNG kéo dài 2701 năm.
LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ sinh ra 100 người con trong một bọc 50 nam 50 nữ đủ năm màu da ứng dụng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. VÀNG – TRẮNG – ĐEN – ĐỎ – CHÀM giữa tiểu kiếp thứ 5 tức là cách đây 75 triệu 600 nghìn năm và ĐỨC CHÍ TÔN THIÊN ĐẾ- QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG chính là con cả trong 100 người con của ĐỨC CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ. Khi ấy người có tên là Hoàn Nhất Long ở tiểu kiếp thứ 5.
ĐỨC CHÍ TÔN THIÊN ĐẾ đầu thai xuống trần làm con KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 và THẦN LONG NỮ của Bộ Tộc Long Giao nay là nước Nhật Bản cách đây năm nghìn năm.
100 ÔNG BÀ TỔ TỔ TỔ hiện đang là THÁNH TỔ TỔ TỔ, PHẬT TỔ TỔ TỔ, TIÊN TỔ TỔ TỔ, THÁNH MẪU TỔ TỔ TỔ, PHẬT MẪU TỔ TỔ TỔ vân…vân … Làm các bậc Chí Tôn khắp các TẦNG TRỜI, thay Cha Trời Mẹ Trời cai quản giang san vũ trụ.
ĐỨC CHÍ TÔN THIÊN ĐẾ, con cả LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ ngự tại cõi THIÊN VÂN, TRUNG THIÊN VŨ TRỤ. Khi đầu thai xuống trần làm con của KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 có tên là HÙNG LAN, ĐỜI THỨ 10, Người khai sinh ra nước VĂN LANG và trở thành QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG đời thứ nhất.
Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng là do QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG khai sinh sáng lập trở thành nền Quốc Đạo Văn Lang, và cũng từ đây con người mới biết mình là con cháu của hai đấng RỒNG TIÊN, ĐÓ LÀ CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN và ĐỊA MẪU MẸ TRỜI ÂU CƠ.
Nhưng ở sử liệu lưu chép của chúng ta theo sự truyền khẩu ở vào giai đoạn mất gốc sai lệch rất nhiều.
KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 là đời cuối của niên đại Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy Thần Long Nữ sinh ra Hùng Lan trở thành Quốc Tổ HÙNG VƯƠNG. Truyền được 41 đời đồng danh hiệu Hùng Vương cuối đời Hùng Vương 41 chuyển sang giai đoạn Âu Lạc.
Còn nói KINH DƯƠNG VƯƠNG lấy THẦN LONG NỮ sinh ra LẠC LONG QUÂN thì không có chuyện đó, VÌ SAO LẠI NHƯ THẾ?
Vì LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ không có ở thời KINH DƯƠNG VƯƠNG mà xuất hiện ở giữa tiểu kiếp thứ 5, sanh ra Ông Bà Tổ Tổ Tổ của nhân loại con người cách đây 75 triệu 600 nghìn năm.
LẠC LONG QUÂN chính là ĐỨC CHA TRỜI hay còn gọi là CHÚA TRỜI hay chính là đấng tối cao THƯỢNG ĐẾ. Tên tộc của ĐỨC CHA TRỜI là ĐỨC LONG HOA CỬU HUYỀN.
Uy danh ĐỨC CHA TRỜI là ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI. Tên khi đã có CON là LẠC LONG QUÂN. Như vậy ghi sai lệch rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ ở thời quá khứ đã lâu xa, cách đây 75 triệu 600 nghìn năm lại ở vào thời Kinh Dương Vương chỉ cách đây hơn 5000 nghìn năm. Sự ghi chép này là một sự sai nhầm lớn, biến hai ngôi Cha Trời- Mẹ Trời thành con cái của Kinh Dương Vương và đó là sự nhầm lẫn đáng sợ. Có lẽ sự nhầm lẫn này dẫn đến con dân Đại Việt khổ gần hai nghìn năm.
KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 tên là Lộc Tục sinh ra HÙNG LAN đời thứ 10 chuyển sang niên đại HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ ĐỜI THỨ NHẤT.
Mỗi khi Quốc Tổ truyền giáo Quốc Tổ thường nói:
Tất cả Nhân Loại thế giới đều là anh em một nhà. Năm màu da chung cùng một Bào Bọc. Tất cả nhân loại anh em đều là con cháu của hai đấng Tiên Rồng. LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ.
LẠC LONG QUÂN cốt cách RỒNG. ÂU CƠ cốt cách TIÊN. CHA RỒNG MẸ TIÊN là hiện thân của sức mạnh và vẻ đẹp sức mạnh vô biên, vẻ đẹp tuyệt trần. ĐỨC CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN và ĐỊA MẪU MẸ TRỜI ÂU CƠ là Chánh Thân – Chánh Mẫu hiện thân của ĐỨC TỔ TIÊN. BA NGÔI TỐI CAO CỦA VŨ TRỤ.
CÒN PHỤ THÂN PHỤ MẪU cha mẹ hiện tiền, là hai bậc sanh thành, tiếp nối lưu truyền nòi giống con người. Nói đến chữ hiếu là phải sanh con nối dòng, nối dõi, dù Trai hay Gái vì vậy cha sanh mẹ đẻ hiện tiền là Cha Trời Mẹ Trời thứ hai, bất hiếu với Cha Mẹ hiện tiền đồng nghĩa bất hiếu với Cha Trời Mẹ Trời là việc đứng đầu các tội ác.
Lưu truyền nòi giống là đại hiếu đối với Ông Bà Cha Mẹ dòng họ và đối với ba ngôi vô thượng TỔ TIÊN, CHA TRỜI – ĐỊA MẪU. Sau đó mới nói đến chuyện xuất gia đi tu là hợp lẽ trời. Còn bằng không cứ ở nhà tại gia, học kinh giáo đại thừa Văn Hóa Cội Nguồn. Thờ phụng TỔ TIÊN – CỬU HUYỀN CHA TRỜI – ĐỊA MẪU. Làm nhiều việc thiện làm lợi ích cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc, giới luật tinh nghiêm thời đó là bậc Thánh đại chân tu trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Vì thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ cần hành sự theo Văn Hóa Cội Nguồn ĐẠI ĐẠO TỐI CAO VŨ TRỤ. Đời Đạo chỉ là một, xuất gia hay tại gia gì cũng như nhau.
Do sự lưu truyền, truyền khẩu lệch lạc quá lâu, tam sao thất bản đã dẫn đến Văn Hóa Cội Nguồn- nền Quốc Đạo vì thế cũng lệch lạc và dần dần biến mất. Thay vào đó là sự thăng trầm của xã hội và biến đổi không ngừng, chân lý Cội Nguồn cũng biến cải theo nên càng xa Cội Gốc. Vì thế sự ghi chép đời sau cũng lệch lạc theo, vô tình đưa Văn Hóa Cội Nguồn đến đà hoang tưởng, mở ra cho sự tan rã, thiếu niềm tin về Văn Hóa Cội Nguồn, mất lần sự đoàn kết con cháu Tiên Rồng, mạnh ai theo ý tưởng nấy và đây là cơ hội cho ngoại bang xâm lược đất nước ta, biến dân tộc ta trở thành dân tộc nô lệ cho chúng. Thời kỳ như vậy là thời kỳ non sông ĐẠI VIỆT đã phủ U Minh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giặc.
Một dân tộc có sức mạnh chống ngoại xâm dù to lớn đến đâu mà Cội Nguồn đã mất, thì sức mạnh chống ngoại xâm đó khó mà phát huy đến chỗ chí linh, chí hiển được. Sức mạnh thần thánh đoàn kết không còn thì ĐỘC LẬP khó mà giữ vững. Bằng chứng, con cháu Tiên Rồng Đại Việt luôn luôn bị đô hộ ngoại xâm gần hai nghìn năm cơ hàn khốn khổ.
Đây là bài học xương máu, muốn giữ độc lập lâu dài thì phải củng cố xây dựng nền Văn Hóa Cội Nguồn cho thật vững chắc. Thờ phụng Quốc Tổ không chỉ nơi đền thờ mà còn ở cả các cơ quan nhà nước, gìn giữ tôn thờ Quốc Tổ như gìn giữ sanh mạng của toàn dân tộc.
Các thế lực ngoại xâm khi tìm hiểu đến Cội Nguồn của dân tộc ta liền thấy nhiều điểm không hợp lý, hoang tưởng, cũng bởi do sự thất truyền mà ra. Nền Văn Hóa Quốc Đạo đã mất nên con cháu Tiên Rồng dân tộc Đại Việt dần dần mất đi sự đoàn kết, thường có sự chia rẽ giữa các dân tộc anh em. Người Kinh cũng như người Thượng lung lay ý chí Đoàn Kết. Cội Nguồn mất đi như cây mất Gốc tự héo cành rũ lá, đó là lúc bóng U Minh bao trùm xuống non sông Tổ Quốc.
Cây đã mất Gốc, sông đã mất Nguồn, Lá tự héo Cành. Chỉ cần một luồng gió mạnh thì cây tự ngã đổ, gió chiều nào ngã theo chiều đó. Sông đã mất Nguồn sông cạn, sông khô. Người dân Đại Việt đã cạn Nguồn Trung Hiếu, Nhân Nghĩa đối với Ông Cha và tai họa cũng từ đây giáng xuống.
Lịch sử Tiên Rồng ghi chép trong giai đoạn thất truyền không những không đem lại kết quả lợi ích lớn, mà còn làm cho một số người kém hiểu biết hủy báng Cội Nguồn của mình dẫn đến cảnh nồi da nấu thịt tai hại vô cùng.
Đối với những học giả thường tục, chưa chứng quả trí huệ đạt đến cảnh giới Thần Thông thì việc ghi chép Văn Hóa Cội Nguồn không đem lại Ánh Sáng Thái Dương mà chỉ đem lại Ánh Sáng Đom Đóm lúc tối lúc sáng, khó mà có thể soi đường cho dân tộc Việt Nam được.
Những người trung hiếu đọc đến còn có chút niềm tin tưởng, còn những kẻ bất trung bất hiếu khi đọc đến thì mất hết niềm tin, có người còn sanh tâm hủy báng
Tiên Rồng ngày xưa vốn thật Rồng
Tiên Rồng mất gốc trở thành con Giun
Lịch sử Tiên Rồng ngày xưa chính là nền Văn Hiến Quốc Đạo (Xem Long Hoa Mật Tạng sẽ nói rõ hơn).
LẠC LONG QUÂN chính là Đức CHA TRỜI mà tên Tộc của CHA TRỜI là ĐỨC LONG HOA CỬU HUYỀN, Đấng Chúa Vũ Trụ. Uy danh của Đức CHA TRỜI là ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI. Nhưng hiện nay sách sử của ta ghi chép: LẠC LONG QUÂN là con của KINH DƯƠNG VƯƠNG và có nguồn gốc ở biển. Sự ghi chép sai nhầm này đã để đời hậu thế con cháu biến ĐỨC CHA TRỜI Đấng Tối Cao Vũ Trụ trở thành thần Linh có nguồn gốc ở biển.
Đúng là,
Lạc Long Quân vốn là Cha Trời
Về sau con cháu chép nhầm Thần Linh
Sự chép nhầm ĐỨC CHA TRỜI- Đấng Tối Cao Vũ Trụ trở thành Thần Linh có nguồn gốc ở biển đã biến lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn trở thành Văn Hóa Thần Linh, sự sai nhầm tai hại. Các thế lực ngoại xâm dựa vào sự chép nhầm của ta mà cho rằng, Văn Hóa Cội Nguồn chỉ là Thần Giáo dựa trên cơ sở hai đấng thần linh LẠC LONG QUÂN CỐT RỒNG ở biển, bà ÂU CƠ CỐT TIÊN ở núi.
Nói đến Đạo Giáo Tôn Giáo, giai cấp Thần Linh dù là Thiên Thần cũng chỉ là con dân của Phật – Thánh – Tiên huống chi là Địa Thần – Thủy Thần chỉ là Thần Linh Núi Sông Biển Cả, còn dưới cả Vua Chúa chốn nhân gian. Các Ngài chỉ là thần linh hộ pháp trong khi nói đến Nguồn Cội của dân tộc Việt Nam, là nói đến Nguồn Cội nhân loại thế giới.
Phát nguồn từ Tổ Tiên, Cha Trời-Địa Mẫu, LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ hai đấng Rồng Tiên, hiện thân ra đời cách đây đã hơn bốn tiểu kiếp, là 75 triệu 600 nghìn năm.
Và cứ mỗi tiểu kiếp thì lặp lại thời HỒNG HOANG rồi đến HỒNG BÀNG đến HỒNG CHÚA, HỒNG ĐẾ đến VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG đến KINH DƯƠNG VƯƠNG rồi chuyển sang giai đoạn HÙNG VƯƠNG. Cuối đời HÙNG VƯƠNG thứ 41 chuyển sang giai đoạn AN DƯƠNG VƯƠNG. Kết thúc thượng ngươn – trung ngươn – hạ ngươn mạt pháp. Mạt pháp là thời kỳ đen tối của con cháu Tiên Rồng dẫn tới nô lệ, lệ thuộc ngoại bang gần 2000 năm.
Như vậy, nói đến Nguồn Gốc dân tộc Việt Nam quan hệ dính liền với nhân loại toàn thế giới là nói đến Nguồn Gốc Rồng Tiên. Từ TỔ TIÊN – CHA TRỜI – ĐỊA MẪU, LẠC LONG QUÂN và ÂU CƠ sanh ra 100 người con 50 nam, 50 nữ, cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Nguồn Gốc nhân loại con người có đủ năm màu da anh em cùng nằm trong Bào Bọc ÂU CƠ.
Còn nói đến QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG dựng nước Văn Lang thì cách đây gần 5000 năm. Vì vậy nói đến Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc là nói lên Cội Nguồn của toàn nhân loại, không phải nói riêng cho một dân tộc nào mà tất cả dân tộc trên toàn thế giới kể cả Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa khắp cùng vũ trụ.
Sự thất thoát, thiếu sót, sai nhầm trong truyền khẩu đã dẫn đến sự kết tập sử liệu sai nhầm, rồi trở thành một giả thuyết lịch sử Cội Nguồn huyền thoại, lẫn lộn quá khứ, lẫn lộn hiện tại. Đã biến đấng CHA TRỜI ĐẤNG TỐI CAO VŨ TRỤ thành thần biển Long Vương và từ đây các thế lực ngoại xâm mới có cơ sở xem thường, Đồng hóa nền văn Hiến Quốc Đạo Tiên Rồng, trở thành văn hóa phong kiến Thần Giáo vào hàng giai cấp Thần Linh. Mà giai cấp Thần Linh dù là Thiên Thần cũng chỉ là con Dân của PHẬT – THÁNH – TIÊN huống chi là giai cấp ĐỊA THẦN – THỦY THẦN chỉ là các vị thần bề tôi của VUA – CHÚA chốn nhân gian.
Trong khi các thế lực ngoại xâm đã xuất hiện ĐẠO GIÁO – TÔN GIÁO thuộc hàng Thánh Giáo trên Thần Giáo Tôn xưng là Phật- Thánh – Tiên – Thần – Chúa nếu đem ra so cọ thì LẠC LONG QUÂN – BÀ ÂU CƠ, ông Cốt Rồng Thần Biển, bà Cốt Tiên Thần núi cả hai chỉ là thần linh chốn phàm Trần, chỉ mới là con dân của ba giai cấp Phật – Thánh – Tiên mà thôi. Tôn Giáo, Đạo Giáo của các thế lực ngoại xâm, họ mạnh dạn truyền bá Tôn Giáo, Đạo Giáo đã được cải biến chính trị có lợi cho mưu đồ xâm lược của họ, xoay chuyển tình thế. Có nghĩa là các thế lực ngoại bang, ngoại xâm họ dùng Tôn Giáo Đạo Giáo đã cải biến thành vũ khí chính trị đè bẹp làm khiếp sợ tinh thần dân tộc ta theo chiều hướng có lợi cho họ. Làm cho dân tộc ta từ tự chủ độc lập chuyển sang giai đoạn mất tự chủ, và giặc đã thao túng tinh thần dân tộc ta, làm cho dân tộc ta không còn sức mạnh đoàn kết sức mạnh chống ngoại xâm. Chưa kể một số nhẹ dạ cả tin, những thành phần kém hiểu biết đã làm con rối cho chúng, làm theo ý muốn của chúng.
Các thế lực ngoại xâm họ lợi dụng cái bóng Đạo Giáo, Tôn Giáo của họ thành lợi khí chính trị, thành truyền thuyết chính nghĩa, đạo đức giả làm mê hoặc dân tộc ta.
Một khi con cháu Tiên Rồng quên đi nguồn gốc Truyền Thống dựng nước của chính mình thì mặt trời Cội Nguồn đã lặn bóng và u minh liền bao trùm lấy non sông Đại Việt dẫn đến nội chiến nồi da nấu thịt, Đồng Bào tàn sát lẫn nhau. Đây là lúc các thế lực ngoại xâm họ đem ánh sáng trăng sao, ánh sáng Tôn Giáo, Đạo Giáo có xu hướng chính trị truyền sang qua nước ta, đầu độc dân tộc ta, lôi kéo tinh thần dân tộc ta đi vào con đường có lợi cho chúng. Những thành phần kém hiểu biết bị chúng đầu độc đi tôn thờ nhân vật lịch sử anh hùng của chúng, mà quên đi lịch sử anh hùng của dân tộc ta. Khi các thế lực ngoại xâm thấy văn hóa chính trị của chúng xâm lược, đầu độc tinh thần con cháu Tiên Rồng có hiệu quả và đã ăn sâu vào tâm hồn dân chúng thời khi ấy chúng mới ló cái đuôi chồn cáo, chuyển Đồng bào ta theo chiều hướng nô lệ chính trị cho chúng. Vũ khí lợi hại của chúng là Tôn Giáo, Đạo Giáo, cải biến thành một thứ Tôn Giáo, Đạo Giáo lồng ghép chính trị có sức mạnh hàng Long phục Hổ, một khi Long Hổ đã tùng phục thì họ bảo gì thì Long hổ làm theo nấy, làm tay sai đắc lực cho giặc, thậm chí đưa đến cảnh nồi da nấu thịt đồng bào Anh em tương tàn lẫn nhau (củi đậu nấu hạt đậu) lưỡng Hổ tranh hùng thợ săn đắc lợi và nhân cơ hội đó, chúng chiếm lần đất đai biên giới của chúng ta kiểu như tằm ăn dâu, mọt ăn gỗ. Con cháu Tiên Rồng Đại Việt trải qua đấu tranh giành lại độc lập được rồi lại mất, mất rồi lại được. Con cháu Tiên Rồng như đi trong đêm không hiểu tại làm sao ngoại xâm chiếm lấy một cách dễ dàng, thậm chí chúng không cần đổ một giọt máu mà chúng vẫn điều khiển được dân tộc Việt Nam? Qua những con rối bù nhìn mà chúng ngấm ngầm dựng lên. Qua hình thức Tôn Giáo, Đạo Giáo và Văn hóa độc hại của chúng, vì đã mất ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn. MẶT TRỜI Văn Hóa Chính Nghĩa không còn, Dân tộc Việt Nam coi như đi trong đêm không còn thấy bến bờ tương lai là gì nữa. Nếu có chút ánh sáng Trăng, Sao thì cũng bị dập tắt. Văn hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc là Văn Hóa chủ quyền độc lập, Chủ quyền tự chủ. Văn Hóa của sự bất khuất nhất quyết không lệ thuộc nô lệ. Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo biến mất, con cháu Rồng Tiên phải chịu nhiều nỗi đắng cay, nhục nhã nô lệ. Một dân tộc có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm hàng nghìn năm máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Hết thế lực ngoại bang này xâm chiếm đến thế lực ngoại xâm khác xâm lược, thế mà chúng không đồng hóa được dân tộc ta là vì chúng ta có truyền thống vô cùng tốt đẹp, truyền thống Rồng Tiên. Một dân tộc đã có Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống lịch sử độc lập lâu đời. Cụ thể thời HÙNG VƯƠNG độc lập chủ quyền 2701 năm, chưa kể đến thời KINH DƯƠNG VƯƠNG – Thời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. Thời HỒNG ĐẾ, thời HỒNG CHÚA, thời HỒNG BÀNG, thời HỒNG HOANG chủ quyền độc lập kéo dài hàng triệu triệu năm.
Một dân tộc có truyền thống mạnh như Rồng đẹp như Tiên. Trên thế giới không có một truyền thống nào tốt đẹp như vậy. Do nền Văn hiến quốc đạo thất truyền, ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn chính nghĩa biến mất, con cháu Tiên Rồng không tự chủ được mình và lẩn quẩn trong vòng u minh lệ thuộc ngoại bang, mất đi cốt cách Tiên Rồng uy linh bao trùm Hoàn vũ. Thật vậy, nói đến Rồng thì phải làm mưa làm gió phun châu nhả ngọc, nói đến Phụng là nói đến vẻ đẹp lộng lẫy của dân tộc. Vẻ đẹp về Truyền Thống, vẻ đẹp về Đạo Đức, vẻ đẹp về nhân cách của con người Việt Nam. Nhưng đằng này dân tộc Việt Nam Đạo Đức càng ngày càng xuống cấp là do mất đi Văn hóa Cội Nguồn. Nếu Văn Hóa Cội Nguồn không bị thất truyền thì con cháu Rồng Tiên Việt Nam rực rỡ như mùa xuân, sáng chói như ánh thái dương khắp năm châu bốn biển. Một dân tộc đã mất đi Văn Hóa Cội Nguồn, nếu không nhờ sự che chở của hai đấng Tiên Rồng Cha Trời Địa Mẫu cũng như Quốc Tổ và các thời Hùng Vương, hồn thiêng dân tộc, hồn thiêng sông núi, thì con cháu Tiên Rồng Đại Việt còn khốn nguy hơn nữa. Nước mất nhà tan, cảnh nồi da nấu thịt Đồng Bào tàn hại lẫn nhau.
Suy xét cho cùng Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa, cũng chỉ là con cháu của Đức Cha Trời, con cháu Tiên Rồng, dân tộc Đại Việt. Bỏ Cội Nguồn, bỏ Cha Trời, chạy theo thờ phụng Phật- Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Còn Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa thì thờ phụng Đức CHA TRỜI. Một sự loanh quanh, vòng vèo gần không đi lại muốn đi xa lạc mất Cội Nguồn.
Thật vậy ĐẤNG KHAI HÓA TỔ TIÊN hiện thân hai Đấng CỬU HUYỀN – CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN VÀ ĐỊA MẪU ÂU CƠ là ba ngôi tối cao vũ trụ Cội Nguồn của Nhân loại con người. Dân tộc Đại Việt là dân tộc Rồng Tiên, Con cháu Tiên Rồng không thờ Tổ Tiên Cha Trời Địa Mẫu. Bỏ Cội Nguồn chạy theo thờ phụng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Lạc mất Cội Nguồn rơi vào cảnh khốn khổ, khiếp sợ trước quyền năng của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mà thật ra Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con cháu của Tổ Tiên, Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ mà thôi. Chỉ có Tổ Tiên Cha Trời, Địa Mẫu mới có đủ quyền năng ban phước giáng họa, chuyển xoay vũ trụ, chuyển xoay vận mệnh của mỗi đất nước, mỗi dân tộc, mỗi con người. Nếu con cháu Tiên Rồng Đại Việt trở về với Cội với Nguồn, Tôn thờ Tổ Tiên, Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ thì dân Tộc Đại Việt trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hết thảy, không cần tìm cầu Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đâu xa. Còn nếu dân tộc Đại Việt bỏ Cội bỏ Nguồn không tôn thờ Tổ Tiên, Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ. Tôn Thờ Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa là chúng ta bỏ cái Gốc chạy theo cái Ngọn. Bỏ mất cái gốc khác nào con lạc Cha, lạc Mẹ vô cùng khổ thay.

Nói tóm lại: Dân Tộc Đại Việt Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa bình đẳng, chỉ tôn thờ Quốc Tổ Hùng Vương, Thờ Trời. Thờ những công thần có công chống ngoại xâm giữ gìn độc lập Tổ Quốc.
Cây có Gốc , cây mới nở cành xanh ngọn
Sông có Nguồn sông mới không cạn khô
Cây mất Gốc cành khô trụi lá
Người lạc Cội, lạc Nguồn, lạc lối bơ vơ
Lạc trong sanh tử u mờ
Lạc trong biển khổ cuộc đời ra chi
Đói đau khổ nạn
Ngục tù đọa sa.

Trưởng Nhóm Nghiên Cứu Tiến Sĩ Cao Đức Toàn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét